Hiệu quả giảm đau ở thai phụ chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng ngắt quãng tự động tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội năm 2024=Effectiveness of pain relief in pregnant women during labor using epidural anesthesia at Tam Anh Hospital in 2024

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thị Mỹ Hạnh Nguyễn, Xuân Anh Nguyễn

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam), 2024

Mô tả vật lý: tr.170-177

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 243888

Compare the effectiveness of Continuous Epidural Infusion (CEI) with Programmed Intermittent Epidural Bolus (PIEB) with Ropivacain 0,1% and fentanyl 2mcg/ml in labor. Methods: Clinical intervention study, randomized and controlled on 60 pregnant womens who received analgesia during labor with ropivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml, divided into 2 groups: group I: CEI ( continuous 8ml/h) , group II: PIEB (bolus 8ml every 1h, 250ml/h), data were coded and processed according to statistical methods. Results: VAS scores of both groups after anesthesia decreased compared to time H0, the difference was statistically significant. The amount of anesthetics Ropivacaine and fentanyl in the study in group P was lower than in group C, the difference was statistically significant. The number of pregnant women requiring rescue doses in group P was 13% less than in group C, a statistically significant difference of 22,7%. Conclusion: Programmed Intermittent Epidural Bolus ( PIEB) helps reduce the amount of anesthetic used, and reduces the need for medical staff intervention to achieve pain relief compared with Continuous Epidural Infusion (CEI).So sánh hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng liên tục (CEI) và gây tê ngoài màng cứng tiêm thuốc ngắt quãng tự động theo cài đặt (PIEB) bằng ropivacain 0,1% và fentatnyl 2mcg/ml. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên và có đối chứng trên 46 sản phụ chuyển dạ sinh thường, được làm giảm đau NMC bằng Ropivacain 0,1% + Fentanyl 2mcg/ml được chia thành 2 nhóm ngẫu nhiên: nhóm I: CEI (chạy liên tục 8ml/h), nhóm II: PIEB (bolus 8ml mỗi 1h, tốc độ 250ml/h). số liệu được mã hoá và xử lý theo các phương pháp thống kê. Kết quả: Điểm VAS của 2 nhóm sau khi gây tê đều giảm hơn so với thời điểm H0, sự khác biệt với ý nghĩa thống kê. Lượng thuốc tê Ropivacain, fentanyl trong nghiên cứu ở nhóm PIEB thấp hơn với nhóm CEI, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Số sản phụ cần liều cứu của nhóm PIEB với 13% ít hơn nhóm CEI là 22,7% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH