Bài viết được thực hiện nhằm đánh giá tình hình chăn nuôi và tỉ lệ viêm móng ở bò thịt trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thông qua phương pháp điều tra và phỏng vấn 90 hộ chăn nuôi bò thịt. Kết quả khảo sát trên 1.751 bò thịt tại 90 hộ thuộc 9 xã cho thấy mỗi hộ nuôi trung bình 20 con. Tỉ lệ bò thịt nhiều nhất thuộc nhóm tuổi 1 - 2 năm (37,46%) và từ 2 - 3 năm (34,55%). Các giống bò nuôi thịt chủ yếu gồm lai Sind, BBB (Blanc-Blue-Belgium) và Charolais. Nguồn thức ăn thô xanh gồm cỏ lông tây (36,67%), cỏ voi (27,78%) và cỏ mật (12,22%). Thức ăn ủ chua từ cỏ voi chiếm tỷ lệ 12,22% là phổ biến nhất. Tuy nhiên, kết quả khảo sát ghi nhận vệ sinh sát trùng chuồng trại thực hiện không thường xuyên. Tỉ lệ hộ nuôi bò thịt bị viêm móng tại thời điểm khảo sát ở 90 hộ chiếm 25,56%, dao động 10 - 40% ở các xã. Trong khi đó, tỉ lệ bò bị viêm móng trung bình lưu hành tại 9 xã khảo sát là 4,68%. Tình trạng viêm móng vẫn còn xảy ra với tỉ lệ khá cao, gây thiệt hại kinh tế cho hộ chăn nuôi.The study was to evaluate husbandry of beef cattle and lameness rate of cattle smallholder farms in Duc Hoa district, Long An province. Using questionnaires and interview 90 beef cattle smallholder farms. The results showed 1,751 beef cattle from 90 smallholders in 9 communes and about 20 cattle/smallholders. The cattle at 1 - 2 years had the highest rate at 37.46%, and >
2-3 years at 34.55%. The beef cattle breeds included mainly Lai Sind, BBB (Blanc-Blue-Belgium), and Charolais. The fresh crude feed included feather grass (36.67%), elephant grass (27.78%), and honey grass (Eriochloa procera) (12.22%). The fermented feed was 12.22% from elephant grass, which was the most common type. However, the results showed that the barn was disinfected not often. The lameness rate at the householder level was 25.56% in 90 householders, of which 10-40% was distributed in all communes. The prevalence of lameness rate was 4.68%. The lameness rate occurred at a high rate, causing economic losses for beef cattle households.