Bài báo này trình bày các kết quả mô phỏng lưu lượng dòng chảy trên lưu vực sông Thu Bồn tính đến trạm thủy văn Nông Sơn sử dụng mô hình bộ nhớ dài – ngắn LSTM. Chuỗi số liệu mưa tại Nông Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước, Trà My và lưu lượng dòng chảy tại Nông Sơn từ 1/1/1977 đến 31/12/2020 đã được thu thập để phục vụ cho các mục đích tính toán. Phương pháp thử sai đã được sử dụng để xác định giá trị phù hợp của các thông số mô hình LSTM, trong khi bốn chỉ tiêu đánh giá sai số (sai số quân phương - RMSE, sai số trung bình tuyệt đối - MAE, hệ số tương quan - r và hệ số Nash–Sutcliffe efficiency - NSE) đã được áp dụng để đánh giá sự phù hợp giữa lưu lượng dòng chảy tính toán và thực đo. Kết quả tính toán thể hiện rằng mô hình LSTM đã tái hiện khá tốt chuỗi lưu lượng dòng chảy thực đo trong thời kỳ nhiều năm trên lưu vực nghiên cứu. Hệ số tương quan r thay đổi từ 0,87 đến 0,95, trong khi hệ số NSE dao động từ 0,73 đến 0,90. Giá trị RMSE và MAE của lưu lượng dòng chảy nhỏ hơn 3,52% biên độ lưu lượng dòng chảy thực đo ghi nhận tại trạm. Trong bốn trạm mưa thu thập trên lưu vực nghiên cứu, dữ liệu mưa tại trạm Trà My cho các kết quả mô phỏng chuỗi lưu lượng dòng chảy thực đo tại Nông Sơn tốt nhất khi sử dụng mô hình LSTM, với hệ số tương quan r lớn hơn 0,94 và hệ số NSE lớn hơn 0,88. Ảnh hưởng của dữ liệu mưa và khả năng nâng cao độ chính xác kết quả mô phỏng lưu lượng dòng chảy khi sử dụng mô hình LSTM cũng được thảo luận.