Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ xuất hiện và đặc điểm của các dạng dị hình ở bốn loài cá biển giai đoạn con giống, bao gồm cá chim vây ngắn (Trachinotus falcatus), cá chim vây dài (Trachinotus blochii), cá chẽm (Lates calcarifer) và cá khế vằn (Gnathanodon speciosus), đang được sản xuất giống nhân tạo tại Khánh Hòa, Việt Nam. Các mẫu cá giống có kích cỡ từ 3 đến 5 cm được thu thập từ các trại sản xuất giống ở Cam Ranh và Nha Trang. Với mỗi loài, mẫu được thu từ 10 đàn cá khác nhau trong năm. Đối với mỗi đàn, ba bể nuôi được lựa chọn ngẫu nhiên để lấy mẫu, với 300 cá thể/bể. Các dạng dị hình và tỷ lệ xuất hiện của chúng được ghi nhận và so sánh giữa các loài. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ dị hình chung và từng dạng dị hình giữa các loài nghiên cứu. Cá chim vây ngắn có tỷ lệ dị hình chung cao nhất (10,73%), tiếp theo là cá chẽm (7,28%), trong khi cá chim vây dài và cá khế vằn có tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 3,64% và 2,85%. Trong cùng một loài, dị hình nắp mang xuất hiện với tần suất cao hơn so với các dạng dị hình khác. Các dấu hiệu đặc trưng của từng dạng dị hình, bao gồm đặc điểm hình thái ngoài và hình ảnh nhuộm xương, đã được mô tả chi tiết. Nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng về tỷ lệ dị hình ở một số loài cá biển tại các trại sản xuất giống cá biển ở Khánh Hòa. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để các nhà sản xuất và cơ quan quản lý ngành thủy sản đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng con giống cá biển sản xuất tại địa phương.This study aimed to assess the prevalence and characteristics of deformities in four marine fi sh species at the juvenile stage, including short fi n pompano (Trachinotus falcatus), long fi n (snubnose) pompano (Trachinotus blochii), barramundi (Lates calcarifer), and golden trevally (Gnathanodon speciosus), artifi cially produced in Khanh Hoa, Vietnam. Juvenile fi sh samples ranging from 3 to 5 cm in size were collected from hatcheries in Cam Ranh and Nha Trang. For each species, samples were obtained from 10 diff erent fi sh batches throughout the year. Within each batch, three rearing tanks were randomly selected for sampling, with 300 fi sh/tank. The types of deformities and their prevalence were recorded and compared among species. The results showed signifi cant diff erences in the overall deformity rate and the prevalence of each deformity type among the studied species. Snubnose pompano had the highest overall deformity rate (10.73%), followed by barramundi (7.28%), while pompano and golden trevally had lower rates of 3.64% and 2.85%, respectively. Within each species, opercular deformities occurred more frequently than other types of deformities. The characteristic signs of each deformity type, including external morphological features and bone staining images, were described in detail. This study provides important information on the malformation rates of several marine fi sh species at marine fi sh hatcheries in Khanh Hoa province. The fi ndings will serve as a scientifi c basis for producers and fi sheries management agencies to develop measures to improve the quality of marine fi sh seedlings produced in the local area.