Nghiên cứu được thực hiện vào vụ Thu Đông năm 2019 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đối với 4 giống rau cải (cải xanh, cải bẹ mào gà, cải mơ lùn và cải canh lá đỏ) trồng trong hệ thống thủy canh hồi lưu. Kết quả cho thấy, các giống rau cải thí nghiệm có khả năng sinh trưởng tốt, thời gian sinh trưởng ngắn (39 – 40 ngày). Năng suất thực thu của các giống rau cải dao động từ 21,64 – 33,75 tạ/1000 m2. Trong đó cải bẹ mào gà có năng suất tương đương cải mơ lùn (33,75 và 31,11 tạ/1000 m2), cao hơn cải xanh (28,69 tạ/1000 m2), cải canh lá đỏ có năng suất thấp nhất (21,64 tạ/1000 m2), sai khác ở mức tin cậy 95%. Các giống rau cải thí nghiệm trong điều kiện thủy canh có hàm lượng N03- thấp (120 – 150 mg/kg sản phẩm), đảm bảo an toàn (<
500mg) theo quy định của Bộ Nông nghiệp đã ban hành (Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN). Hàm lượng VTMC các giống dao động từ 21,80 - 23,53mg/100g, độ Brix dao động từ 2,73 - 3,77% và hàm lượng chất khô dao động từ 6,2 - 7,51%. Trong đó giống cải canh lá đỏ có hàm lượng chất khô cao nhất (7,51%).The study was conducted in Autumn - Winter crop, 2019 at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry with 4 Brasicaceae varieties (Cai xanh, Be mao ga, Mo lun and Canh la do) grown in the circulating hydroponic system. The results showed that the Brasicaceae varieties grown in Autumn - Winter crop in 2019 had good growth and short growing period. The yield of Be mao ga was equivalent to Mo lun (33.75 and 31.11 quintals/1000 m2), higher than Cai xanh (28.69 quintals/1000 m2), while Canh la do showed the lowest yield with 21.64 quintals/1000 m2. The Brasicaceae varieties tested under hydroponic conditions had low N03- content (120 - 150 mg/kg), ensuring safety (<
500mg) as prescribed by the Ministry of Agriculture issued (Decision No. 99/2008/QD-BNN). Vitamin C content ranged from 21.80 to 23.53 mg/100g, while Brix content ranged from 2.73 to 3.77% and dry matter content fluctuated from 6.2 to 7.51%. Among 4 Brasicaceae varieties, Canh la do showed the highest dry matter content (7.51%).