Background: Every year, University Medical Center Ho Chi Minh City receives an average of more than 2 million outpatient visits, patients come to hospitals from all over the country, which is one of the potential risks of infection in hospitals. In the face of a complicated epidemic situation, the behavior of people, especially those who come to the hospital for examination, is the decisive factor contributing to controlling and repelling the epidemic. Methodology: A cross-sectional study in 415 patients who were outpatient at University Medicine Center HCMC during the period from July 1, 2020, to July 4, 2021. This study used an 80% cut-off point to classify good and bad practices. Result: The percentage of subjects with good practice on general prevention was 30.4%, of which wearing masks accounted for the highest rate of 97.1%. The lowest is hand washing time (30.4%). Multivariate regression analysis showed that there was a statistically significant relationship between gender and preventive behavior, specifically: Males with preventive behavior reached 1.39 times higher than women with p<
0.05 in the 95% confidence interval (1.01 – 1.91). Conclusion: Outpatient practice on COVID-19 prevention behaviors in the hospital is limited. The hospital needs to strengthen communication and education on COVID-19 prevention for patients.Thông tin chung: Hàng năm, bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM tiếp nhận trung bình hơn 2 triệu lượt khám ngoại trú, người bệnh đến bệnh viện từ khắp các tỉnh thành trên cả nước, là một trong những nguy cơ tiềm tàng lây nhiễm bệnh trong bệnh viện. Trước tình hình dịch diễn biến phức tạp thì hành vi của người dân, đặc biệt là những người bệnh đến khám tại bệnh viện, chính là các yếu tố quyết định góp phần kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh. Phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 415 người bệnh đến khám ngoại trú tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (Cơ sở II) trong thời gian từ tháng 01/07/2020 đến tháng 04/07/2021. Nghiên cứu này sử dụng điểm cắt 80% để phân loại giữa thực hành tốt và chưa tốt. Kết quả: Tỷ lệ đối tượng có thực hành đạt về phòng ngừa chung là 30,4%, trong đó đeo khẩu trang chiếm tỷ lệ cao nhất 97,1%. Thấp nhất là thời gian rửa tay (30,4%). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính và hành vi phòng ngừa, cụ thể: Nam giới có hành vi phòng ngừa đạt cao gấp 1.39 lần so với nữ giới với giá trị p<
0.05 trong khoảng tin cậy 95% (1.01 – 1.91). Kết luận: Thực hành của người bệnh ngoại trú về hành vi phòng ngừa COVID-19 trong bệnh viện còn một vài hạn chế Bệnh viện cần tăng cường truyền thông, giáo dục phòng chống COVID-19 cho người bệnh.