Nghiên cứu khu hệ động vật nổi phục vụ nuôi trồng thủy hải sản bền vững ở vùng biển tỉnh Kiên Giang

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Đức Khanh Huỳnh, Văn Tùng Phạm, Mạnh Hùng Phan, Trọng Trần, Vĩnh Hoàng Trần

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi, 2022

Mô tả vật lý: tr.36

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 332787

Kien Giang is a province in the Gulf of Thailand with great potential for mariculture. We have conducted a study on the zooplankton fauna at Kien Giang sea to collect the latest data, then there is a basis for analyzing, evaluating and making comments and recommendations to contribute to sustainable mariculture in this area. We conducted two surveys in April, 2021 (dry season) and October, 2020 (rainy season). The zooplankton samples were collected from 33 sites in the Kien Giang sea, using plankton net (with mesh size of 120 µm, mouth diameter of 40 cm attached oceanics mechanical flow meter) to pull at the surface layer at a speed of 0.5 m/s. The results have obtained 71 species belonging to 11 groups, of which 62 species are fish food. The average abundance in the whole sea is 14,844 individuals/m3. Copepoda is the most diverse species composition (46 species) and also dominates in abundance. In the rainy season, the indicators of species composition, abundance, diversity index (H') and diversity value of community (Dv) are higher than those in the dry season. This may reflect that the ecological conditions between the two seasons in Kien Giang sea are diffirent. So in mariculture, it is necessary to pay attention to the change in ecological conditions from the seasonal change. In addition, in the rainy season, a group of freshwater zooplankton has been recorded in the Duong Dong sea of ​​Phu Quoc island, which is also a point to note for mariculture in this place.Kiên Giang là một tỉnh có nhiều tiềm năng về nuôi trồng thủy hải sản, nhưng để phát triển lĩnh vực này một cách bền vững vẫn tồn tại những vấn đề ít được nghiên cứu và Động vật nổi là một trong số đó. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về Động vật nổi tại đây nhằm mục đích đánh giá khu hệ Động vật nổi làm cơ sở cho việc chỉ thị môi trường sinh thái trên vùng biển này. Từ đó đưa ra được những nhận định, kiến nghị góp phần phục vụ cho việc nuôi trồng thủy hải sản bền vững tại vùng biển Kiên Giang. Mẫu Động vật nổi đã được thu tại 19 điểm vào đợt tháng 10/2020 và 14 điểm vào đợt tháng 4/2021. Tại mỗi điểm, mẫu được thu bằng cách dùng lưới vớt hình nón (có kích thước mắt lưới 120µm, đường kính miệng 40cm có gắng lưu tốc kế) để kéo ở tầng mặt với tốc độ 0,5m/s. Kết quả đã thu được 71 loài Động vật nổi thuộc 11 nhóm, trong đó có 62 loài là thức ăn của cá. Mật độ trung bình trên toàn vùng biển là 14.844 cá thể/m3. Nhóm Giáp xác Chân mái chèo có số loài đa dạng nhất (46 loài) và cũng chiếm ưu thế nhất về mật độ. Vào mùa mưa các chỉ tiêu về thành phần loài, mật độ, chỉ số đa dạng H’ và giá trị tính đa dạng Dv đều cao hơn so với mùa khô. Điều này có thể phản ánh điều kiện môi trường sinh thái giữa hai mùa ở vùng biển Kiên Giang là khác nhau, do đó trong nuôi trồng thủy hải sản tại đây cần chú ý đến việc biến đổi môi trường sinh thái từ sự thay đổi mùa gây ra. Ngoài ra, vào mùa mưa có ghi nhận sự xuất hiện của nhóm loài nước ngọt tại vùng biển Dương Đông của đảo Phú Quốc, đây cũng là điểm cần lưu ý cho vấn đề nuôi biển tại nơi này.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH