Mặc dù là hoạt động khá mới tại thị trường Việt Nam nhưng M&A (mua bán sáp nhập doanh nghiệp) đã thu hút được một lượng lớn các nhà nghiên cứu quan tâm. Các tác giả tập trung phác thảo những nét cơ bản và đặc trưng nhất của các thương vụ M&A trong vòng 20 năm trở lại đây, xoay quanh số lượng, giá trị và một số khía cạnh khác như vấn đề đổi mới sáng tạo hay vai trò của các nhà tạo lập chính sách. Tuy nhiên, khoảng trống nghiên cứu vẫn còn dư địa tương đối lớn và việc đánh giá hiệu quả của các thương vụ M&A đang nằm trong số cần được khai phá. Tính đến tháng 3/2018, nhóm nghiên cứu chưa tìm thấy công trình nào thực sự dành trọng tâm đánh giá hiệu quả các thương vụ M&A tại Việt Nam trên diện rộng. Thực tế này có thể được lý giải do đặc thù của việc đánh giá một hoạt động kinh doanh không thể tiến hành trong ngắn hạn. Cụ thể, đối với các thương vụ mua bán sáp nhập, để mang tính tổng quát và đại diện, thì số lượng thương vụ phải đủ lớn. Hơn thế nữa, các thương vụ phải hoàn tất với thời gian đủ dài để kết luận trở nên xác đáng hơn. Trong bài viết, tác giả lựa chọn các thương vụ diễn ra từ 2003 đến 2018, với thời gian đánh giá ít nhất là trên một năm cho mỗi thương vụ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng trong thương vụ là dưới 35%, khả năng thành công của thương vụ đó thấp hơn nhiều so với trường hợp nếu sở hữu một lượng cổ phần đủ để đạt quyền phủ quyết trong doanh nghiệp bên bán. Thêm vào đó, các thương vụ sáp nhập có khả năng thành công cao hơn các thương vụ mua lại và nếu bên mua là công ty nội địa thì tỷ lệ thành công cao hơn bên mua là công ty ngoài Việt Nam.Since merger and acquisition (M&A) has become more and more popular in Vietnam’s economy after Doi Moi, there is an emerge of academic research on this field. Nonetheless, the question on how efficiency the deals run is still a gap when most of literature focus on analysing some other aspects including the value and the volumn of the transactions or the creativity and innovation value that the deals bring to participants, etc. In this research, we collect available information of deals that support us to assess the effieciency of post M&A operations of firms in Vietnam between 2003 and 2018. Our results suggest that, if the acquirer could hold more than 35 percent of common stock in target company, the deal would be more successful than have a lower percentage of shares. In addition, the posibility of positive efficiency of mergers deals is higher than that of acquisitions and if the buyer is foreign company, the deal has more opportunity to get possitive operating outcomes than a deal that buyer is a domestic firm.