Antimon (Sb) và Bismuth (Bi) là hai kim loại nặng có nhiều ứng dụng trong thực tế nhưng cả hai đều có tính độc hại, đặc biệt Sb độc hại tương đương As. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào phân tích hàm lượng các dạng liên kết và hàm lượng tổng của hai kim loại Sb, Bi
đây là hai kim loại chưa từng được nghiên cứu trong trầm tích bề mặt sông Cầu – thành phố Thái Nguyên. Dạng liên kết của kim loại trong trầm tích được tách dựa trên quy trình chiết tuần tự đã được sửa đổi của BCR và Tessier. Mức độ ô nhiễm của Sb và Bi được đánh giá theo các chỉ số Igeo, %RAC và ICF. Kết quả phân tích cho thấy, dạng liên kết của Sb tuân theo thứ tự F5 >
F3 >
F4 >
F1,2 và của Bi tuân theo F3 >
F5 >
F4 >
F1,2. Hàm lượng Bi khoảng 3,54 mg/kg – 5,55 mg/kg còn hàm lượng Sb từ 0,32 mg/kg – 1,69 mg/kg. Mức độ ô nhiễm và rủi ro đối với hệ sinh thái của Sb là thấp (Igeo <
1, %RAC <
10 và ICF <
1) trừ 3 vị trí S2, S5, S6. Đối với Bi, mức độ ô nhiễm từ nặng đến nghiêm trọng theo Igeo (3 <
Igeo <
5) và mức trung bình theo ICF (1 <
ICF <
3) nhưng có mức rủi ro đối với hệ sinh thái lại là thấp (%RAC <
10), điều này do dạng F1,2 của Bi rất nhỏ, chỉ khoảng 0,27% - 2,9%. Các kết quả này sẽ cung cấp dữ liệu tham khảo cho các nghiên cứu về ô nhiễm kim loại nặng trong trầm tích sông Cầu.Antimony (Sb) and Bismuth (Bi) are two heavy metals that have many practical applications, but both are toxic, especially Sb is as toxic as As. Therefore, this study focuses on analyzing the concentration of the bonded forms and the total metal concentration of both Sb and Bi, which have never been studied in surface sediments of the Cau river - Thai Nguyen city. The bound form of the metal in the sediment was separated based on a modified sequential extraction procedure of BCR and Tessier. Contamination levels of Sb and Bi were assessed according to Igeo, %RAC and ICF. The analysis results showed that the bonding form of Sb follows the order F5 >
F3 >
F4 >
F1,2 and that of Bi follows F3 >
F5 >
F4 >
F1,2. Bi concentration is about 3.54 mg/kg – 5.55 mg/kg and Sb concentration is from 0.32 mg/kg to 1.69 mg/kg. The level of contamination and ecological risk of Sb is low (Igeo <
1, %RAC <
10 and ICF <
1) except for 3 locations S2, S5, S6. For Bi, the pollution level was heavily to extremely contaminated according to Igeo (3 <
Igeo <
5) and moderately according to ICF (1 <
ICF <
3) but has a low risk to the ecosystem (%RAC <
10), this is because the F1,2 form of Bi was very small, only about 0.27% - 2.9%. These results will provide reference data for studies on heavy metal pollution in Cau river sediments.