Ag and Sn are not classified as hazardous but both have potential impacts on the environment and ecosystems, so the control and assessment of contamination levels for them is still very necessary, especially today, the mining activities of minerals and nanomaterials are growing, leading to the release of more and more Ag and Sn. Therefore, this study focuses on two metals Ag, Sn in the sediments of the Cau river - Thai Nguyen. The fractions of Ag and Sn in the sediment were extracted by the modified extraction procedure of BCR and Tessier. The ecological risk levels of Ag and Sn were assessed through the geological accumulation index (Igeo), the risk assessment index (%RAC). The results showed that, the fractions of both Ag and Sn followed the order F5 >
F3 >
F4 >
F1,2 (F1,2 - exchangeable and bound to carbonates
F3 - bound to iron and manganese oxides
F4 - bound to organic matter
F5 - residual) while the percentage of F4, F1,2 of Ag is tiny, that of Sn is higher. The concentration of Sn ranges from 21.04 mg/kg to 26.73 mg/kg while the Ag concentration is only from 2.08 mg/kg to 6.71 mg/kg. The contamination level of Ag is higher than that of Sn according to the Igeo index, but the ecological risk of Ag is lower than that of Sn according to the %RAC index.Ag và Sn tuy không được xếp vào loại độc hại nhưng cả hai đều có những tác động tiềm ẩn đối với môi trường, hệ sinh thái vì thế việc kiểm soát và đánh giá mức độ ô nhiễm của chúng vẫn rất cần thiết, đặc biệt ngày nay khai thác khoáng sản, vật liệu nano ngày càng phát triển dẫn tới giải phóng ra lượng Ag, Sn ngày càng nhiều. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào hai kim loại Ag, Sn trong trầm tích sông Cầu – Thái Nguyên. Các dạng liên kết của Ag và Sn trong trầm tích được chiết ra theo quy trình chiết tuần tự đã được sửa đổi của BCR và Tessier. Mức độ rủi ro sinh thái của Ag, Sn được đánh giá thông qua chỉ số tích luỹ địa chất (Igeo), chỉ số đánh giá mức độ rủi ro (%RAC). Kết quả chỉ ra rằng, dạng kim loại của Ag và Sn tuân theo thứ tự F5 >
F3 >
F4 >
F1,2 (F1,2 - dạng trao đổi và liên kết với cacbonat
F3: dạng liên kết với oxit sắt – mangan
F4 - dạng liên kết hữu cơ
F5 - dạng cặn dư), nhưng phần trăm dạng F4, F1,2 của Ag rất nhỏ, còn của Sn thì cao hơn. Hàm lượng của Sn vào khoảng 21,04 mg/kg – 26,73 mg/kg còn hàm lượng Ag chỉ từ 2,08 mg/kg – 6,71 mg/kg. Mức độ ô nhiễm của Ag cao hơn Sn theo chỉ số Igeo nhưng mức độ rủi ro sinh thái của Ag lại thấp hơn của Sn theo chỉ số %RAC.