Khuyết sẹo mổ lấy thai: Tổng quan về triệu chứng, chẩn đoán, thực trạng, một số yếu tố liên quan và điều trị

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thị Thu Hà Bùi, Thị Thùy Dương Đoàn, Thị Vui Lê

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, 2022

Mô tả vật lý: tr.143-152

Bộ sưu tập: Báo, Tạp chí

ID: 337435

Báo cáo tổng quan này được thực hiện để mô tả triệu chứng, chẩn đoán, tỷ lệ mắc, yếu tố nguy cơ và điều trị khuyết sẹo mổ lấy thai (KSMLT). Tổng số 44 báo cáo đưa vào tổng quan được lấy từ PubMed vào tháng 8/2022. Kết quả cho thấy siêu âm âm đạo đầu dò và chụp tử cung vòi trứng có cản quang là hai biện pháp phổ biến nhất, thường được dùng bổ trợ lẫn nhau trong chẩn đoán. Tỷ lệ có KSMLT dao động từ 19% - 84%. Triệu chứng phổ biến bao gồm chu kỳ kinh nguyệt bất thường, ra máu bất thường sau hành kinh, đau bụng dưới hay hạ vị, đau bụng khi có kinh nguyệt và vô sinh. Yếu tố cá nhân (lần sinh, số lần mổ đẻ, tiền sử đái tháo đường, tử cung ngả sau, chỉ số khối cơ thể mẹ) và yếu tố về dịch vụ y tế (kỹ thuật khâu lúc mổ, thời gian chuyển dạ kéo dài, sử dụng kháng sinh dự phòng) có liên qun đến KSMLT. Điều trị bao gồm cả nội và ngoại khoa, tuy nhiên chỉ nên thực hiện khi có các triệu chứng ảnh hưởng đến sức khỏe. Việt Nam có tỷ lệ mổ đẻ cao và có rất ít nghiên cứu về KSMLT. Do vậy cần tiến hành nghiên cứu về chủ đề này trong giai đoạn tới.The study aimed to review studies on cesarean scar defect incidence and its associated factors, diagnostic criteria, and treatments. The study reviewed 44 articles from PubMed in August 2022. Results showed that transvaginal ultrasound and contrast-enhanced hysterosalpingogram were the two most common methods, often used together for diagnosing. The rate of cesarean scar defects ranged from 19% to 84%, depending on the diagnostic method. Common symptoms were irregular menstrual cycles, abnormal bleeding after menstruation, lower abdominal or lower abdominal pain, menstrual cramps, and infertility. Factors associated with cesarean section scar defects included individual factors (parity, number of cesarean deliveries, history of diabetes, uterus recline, maternal body mass index) and medical service factors (stitching technique at cesarean section, prolonged labor period). Treatment included both medical and surgical, but should only be done when there were symptoms affecting the mother’s health. Given the high rate of C-section in Vietnam and very few studies on cesarean scar defects, it is necessary to conduct research on this topic in the future.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH