Tầm soát ung thư cổ tử cung bằng phương pháp đồng xét nghiệm cho phụ nữ Việt Nam từ 25 đến 55 tuổi: Phân tích chi phí – hiệu quả

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thu Hien Bui

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, 2022

Mô tả vật lý: tr.87-95

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 338303

Mục tiêu: “Tầm soát ung thư cổ tử cung bằng phương pháp đồng xét nghiệm cho phụ nữ Việt Nam từ 25 đến 55 tuổi: phân tích chi phí – hiệu quả”, hai mục tiêu được đặt ra như sau: (1) Tiến hành tổng quan tài liệu về phân tích chi phí – hiệu quả của xét nghiệm tế bào cổ tử cung đồng thời và xét nghiệm HPV (đồng xét nghiệm) để tầm soát ung thư cổ tử cung cho phụ nữ trên toàn thế giới nhằm tìm dữ liệu dựa trên nghiên cứu để phân tích mô hình. (2) Phân tích chi phí – hiệu quả của tầm soát ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm HPV đồng thời và tế bào cổ tử cung (đồng xét nghiệm) so với chỉ tế bào cổ tử cung cho phụ nữ từ 25 đến 55 tuổi tại Việt Nam. Phương pháp: Nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích hiệu quả chi phí sử dụng mô hình Markov để phân tích hiệu quả của phương pháp đồng kiểm định trong sàng lọc CC cho phụ nữ Việt Nam từ 25 đến 55 tuổi. Phát hiện: Sàng lọc CC bằng đồng kiểm định 3 lần liên tiếp không hiệu quả về chi phí so với sàng lọc CC bằng tế bào học 5 lần. Trong DSA, nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ICER nhạy cảm nhất với xác suất chuyển đổi từ trạng thái HPV hr(-) sang trạng thái HPV hr(+), tỷ lệ nhiễm HPV hr trong quần thể phụ nữ nói chung và số lần sàng lọc CC. Nghiên cứu này đề xuất khoảng tuổi từ 25 đến 55 để sàng lọc ung thư cổ tử cung trong khi các hướng dẫn quốc gia từ các quốc gia khác nhắm đến phụ nữ từ 21 đến 65 hoặc thậm chí 79 tuổi trong các chương trình sàng lọc của họ. Nghiên cứu không xem xét tác động của việc tiêm vắc-xin HPV đến xác suất chuyển đổi của mô hình Markov. Trong 21 xác suất chuyển đổi được sử dụng trong mô hình Markov, chỉ có một giả định về phạm vi dưới và trên được đưa ra. Kết luận: Sàng lọc CC 3 lần liên tiếp bằng phương pháp đồng xét nghiệm bị chi phối bởi sàng lọc CC 5 lần liên tiếp bằng phương pháp tế bào học. Mặc dù phương pháp đồng xét nghiệm chứng minh là hiệu quả về mặt chi phí trong kịch bản thứ hai theo DSA, nhưng mức tiết kiệm từ 16 đến 64 đô la Mỹ cho 1 QALY sẽ là một lời đề nghị đáng kể cho cả người ra quyết định chăm sóc sức khỏe và người dùng. Ngoài ra, sàng lọc CC 3 lần liên tiếp bằng đồng xét nghiệm làm tăng đáng kể các trường hợp chuyển tuyến và điều trị không cần thiết cho phụ nữ khỏe mạnhObjective: “Cervical cancer screening by co-testing method for Vietnamese women 25 to 55 years old: a cost – effectiveness analysis”, two objectives were set as follows: (1) To conduct literature review on cost-effectiveness analysis of concurrent cervical cytology and HPV testing (co-testing) for screening cervical cancer for women worldwide to fnd research-based data for modeling analysis. (2) To analyze cost-effectiveness of screening cervical cancer by concurrent HPV testing and cervical cytology (cotesting) compared with cervical cytology alone for women 25 to 55 years old in Vietnam. Methods: The study applied cost-effectiveness analysis method using Markov modelling to analyze efciency of the co-testing method in CC screening for Vietnamese women from 25 to 55 years old. Finding: CC screening by 3 times consecutive co-testing was not cost-effective compared to CC screening by 5 times cytology. In the DSA, the researcher found out that the ICER was the most sensitive of the transition probability from HPV hr(-) state to HPV hr(+) state, the prevalence of HPV hr in general women population and the number of CC screening times. This research proposed an age interval from 25 to 55 years for cervical cancer screening while national guidelines from other countries target women from 21 to 65 or even 79 years in their screening programs. The research did not consider effects from HPV vaccination on the transition probabilities of the Markov model. The 21 transition probabilities that used in the Markov model, only one assumption about the lower and upper ranges are made. Conclusions: The 3 times consecutive CC screening by the co-testing method is dominated by 5 times consecutive CC screening by the cytology method. Although the co-testing method proves being cost-effective in the second scenario under the DSA, saving ranges from 16 to 64 USD for 1 QALY gained be a considerable offer for both healthcare decision makers and users. In addition, 3 times consecutive CC screening by cotesting signifcantly increase referral cases and unnecessary treatment of healthy women.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH