Bài viết lựa chọn đọc sâu một văn bản quen thuộc (Tập tản văn Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng) như một phân tích trường hợp để chỉ ra tính kiến tạo của các diễn ngon về cảnh quan, đặc biệt là tính huyền thoại trong các diễn ngôn về “quê nhà” (home-land) của những cộng đồng xa xú. Bài viết, từ đó, sẽ xem xét sự kiến tạo huyền thoại về cảnh quan Hà Nội/Bắc Việt của văn bản
đồng thời đặt nó bên cạnh những diễn ngôn khác về nơi chốn ấy, nhằm chỉ ra được sự chi phối của những ý thức hệ nhất định đằng sau các diễn ngôn về cảnh quan. Cụ thể hơn, người viết hướng tới lí giải “những cơ chế để kiến tạo huyền thoại” hay bối cảnh thời đại dẫn tới kiểu tâm lí tha hương đặc thù đã đưa tới sự hình thành của những diễn ngôn như Thương nhớ mười hai. Việc tìm kiếm những cơ chế cho phép tạo dựng cảnh quan trong tác phẩm, bởi vậy, cũng chính là trả lời câu hỏi vì sao/làm thế nào mà một sự thể hiện/trình bày về Bắc Việt nói chung và Hà Nội nói riêng như thế đã được ra đời, và đâu là những điều kiện có tính lịch sử đã cho phép sự tưởng tượng huyền thoại đó.This article chooses Vu Bang’s Thuong nho muoi hai as a case study to discover the ways in which landscapes are constructed in discourses, especially focuses on how mythologies of “home-land” were created in expatriate communities. Landscape of Ha Noi in particular (or Bac Viet in general), therefore, is not only analysized to reveal its imaginariness but also compared with other discourses about Hanoi to realize the mutual ideologies govern them. The article then tries to find out psychological mechanisms which led to the constructions of this landscape as a paradise of nature and human life. Traumatic historical upheavals, war and the devision of the country, the migration of northerners to the south, the nostalgia for homeland, all can be seen as historical and psychological conditions which brought about a system of presentations of Ha Noi/Bac Viet in this period, of which Thuong nho muoi hai is an expample.