Mối quan hệ giữa danh mục cho vay có rủi ro trên 30 ngày và tính bền vững các hoạt động tài chính vi mô Việt Nam

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thanh Liêm Nguyễn, Thanh Bình Phan, Quang Thông Trương

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, 2023

Mô tả vật lý: tr.45797

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 339228

 Bài viết này phân tích tác động của danh mục cho vay (DMCV) có rủi ro trên 30 ngày (PAR>
 30) đến tính bền vững các hoạt động (OSS) của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) Việt Nam trong giai đoạn 2006–2019. Kết quả hồi qui với mô hình tác động cố định (FEM) và phương pháp moment tổng quát hệ thống (SGMM) cho thấy tác động tiêu cực của PAR>
 30 đến tính bền vững OSS ở mức ý nghĩa 1%. Điều này hàm ý rằng, DMCV có PAR>
 30 khi được kiểm soát tốt sẽ giúp các TCVM tăng cường tính bền vững OSS. Đáng chú ý, nghiên cứu còn cung cấp bằng chứng cho thấy việc sử dụng các nguồn vốn khác nhau (vốn chủ sở hữu, vốn tiết kiệm, vốn vay và nợ khác) đã làm thay đổi tác động tiêu cực của PAR>
 30 lên tính bền vững OSS và điều này cũng có sự khác biệt giữa các hoạt động TCVM tại Việt Nam so với Đông Nam Á. Kết quả hồi qui cho thấy, mối quan hệ của các biến tương tác giữa PAR>
 30 và vốn chủ sở hữu, vốn vay, nợ khác với tính bền vững OSS trong bối cảnh các hoạt động TCVM tại Việt Nam là tích cực (ở mức ý nghĩa 1%). Tuy nhiên, trong bối cảnh Đông Nam Á, các hệ số nói trên là âm và đủ ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Đối với nguồn vốn tiết kiệm, nhóm tác giả tìm thấy sự tương đồng giữa Việt Nam và Đông Nam Á khi tăng cường sử dụng nguồn vốn này đều làm giảm tác động tiêu cực của PAR>
 30 lên tính bền vững OSS. Các kết quả nghiên cứu này là cơ sở để nhóm tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm giúp các tổ chức TCVM tăng cường quản trị DMCV có rủi ro, có chính sách sử dụng các nguồn vốn hoạt động phù hợp, nâng cao tính bền vững.This paper analyzes the relationship between portfolio at risk more than 30 days (PAR>
 30) and operational sustainability (OSS) of Vietnamese microfinance institutions during the period 2006 - 2019. Regression results with fixed effects (FE) and System GMM models show a negative impact of PAR>
 30 on OSS, significant at the 1% level. This implies that PAR>
 30 under being well controlled will help microfinance institutions in enhancing OSS. Notably, the paper also provides evidence that the use of different sources of capital (equity, savings, borrowings and other liabilities) changes the negative impact of PAR>
 30 on OSS and this also has the difference between Vietamese microfinance institutions compared to in Southeast Asia. Accordingly, the regression results show that the relationship of the interaction variables between PAR>
 30 and equity, borrowings and other liabilities with OSS in the context of Vietnamese microfinance institutions are positive (at the 1% significant level). However, in the context of Southeast Asia, these respective coefficients are negative (at the 1% level). Regarding savings, we find that significant similarity between Vietnam and Southeast Asia as the increasing in the use of this capital, it reduces the negative impact of PAR>
 30 on OSS. Some policy implications are suggested to help microfinance institutions by strengthening risk portfolio management and using appropriate operating capital sources in order to enhance sustainability.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH