Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả lâm sàng, cận lâm sàng bệnh động kinh ở trẻ em tại bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 2019 tới 2022. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng gồm 202 bệnh nhân động kinh được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của The International League Against Epilepsy. Phương pháp nghiên cứu mô tả một loạt ca bệnh. Kết quả: Động kinh gặp ở trẻ trai nhiều hơn trẻ gái (trai/gái là 1,62/1), chủ yếu từ 5 đến dưới 10 tuổi với tuổi trung bình là 5,22 ± 3,93 tuổi. Động kinh toàn thể gặp nhiều hơn động kinh cục bộ (50,5% và 48% theo thứ tự). Ở nhóm toàn thể, cơn khởi phát vận động chiếm tỷ lệ cao nhất 95%, trong đó cơn co cứng co giật (62,8%), tất cả là cơn vắng điển hình. Trong nhóm cục bộ, cơn cục bộ rối loạn nhận thức chiếm 92,8%, trong đó cơn cục bộ khởi phát vận động chiếm 94,85%, cơn cục bộ tiến triển co cứng co giật hai bên là 32,1%. Điện não đồ có biểu hiện sóng động kinh điển hình ở 35,1%, 22,8% trường hợp chẩn đoán hình ảnh bất thường. Có 34 trường hợp có chụp MRI (16,8 %), 6 trường hợp có bất thường. Kết luận. Bệnh động kinh phổ biến ở trẻ 5 đến 10 tuổi, thể hiện cơn điển hình và cục bộ. Chẩn đoán động kinh dựa vào điện não đồ nhưng phát hiện nguyên nhân phải dựa vào chẩn đoán hình ảnh nhất là MRI.Objective: The study was done to describe the clinical and subclinical features of epilepsy in children at Haiphong Children’s Hospital from 2019 to 2022. Subjects and Method: Subjects included 202 patients with epilepsy diagnosed by the International League Against Epilepsy (ILAE). The method was a series case report. Results: Epilepsy was common in boys (boys/girls ratio was 1.62/1), mainly in children from 5 to less than 10 years old and average age was 5.22 ± 3.93 years old. Generalized seizures were more common than partial seizures (50.5% and 48%, respectively). In the generalized epilepsy, motor-onset crisis was in the highest rate 95%, of which myotonic crisis presented 62.8%, all absents were typical crisis. In the partial group, cognitive disorder accounted for 92.8%, in which partial motor onset was 94.85%, partial onset with progressive and bilateral myoclonic crisis was 32.1% Electroencephalography showed typical epileptic waves in 35.1% of patients and 22.8% of cases had abnormal diagnosis. Thirty-four patients had MRI (16.8 %), 6 cases had abnormal MRI. Conclusions: Epilepsy was common in children from 5 to 10 years old, displayed by generalized and partial seizure. The epileptic diagnosis was based on Electroencephalography but the detection of its causes must be based on imaging diagnosis particularly MRI.