Bài viết nghiên cứu tác động của các yếu tố đến rủi ro thanh khoản (RRTK) của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam giai đoạn 2011–2021. Bài viết sử dụng số liệu của 26 ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của hệ thống NHTM Việt Nam. Các yếu tố trong mô hình nghiên cứu bao gồm là quy mô ngân hàng (SIZE), khả năng sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ vốn chủ sở hữu (CAP), tỷ lệ nợ xấu (NPL), tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR), tỷ lệ cho vay trên tổng huy động (LDR), tỷ lệ lạm phát (INF) và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (GDP). Bằng việc sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng OLS, phương pháp hồi quy theo mô hình tác động cố định FEM và tác động ngẫu nhiên REM, kết quả cho thấy quy mô ngân hàng (SIZE), tỷ lệ vốn chủ sở hữu (CAP), tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR), tỷ lệ cho vay trên tổng huy động (LDR) và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (GDP) có mối quan hệ cùng chiều với RRTK của ngân hàng. Trong khi đó, khả năng sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ nợ xấu (NPL) và tỷ lệ lạm phát (INF) có mối quan hệ ngược chiều với RRTK của ngân hàng.The article investigates the determinants of liquidity risk of Vietnamese commercial banks from 2011 to 2021. We use data from 26 banks with a large proportion of total assets in Vietnamese commercial banking system. The following factors were included in the research model: bank size (SIZE), return on equity (ROE), equity ratio (CAP), bad debt ratio (NPL), credit provision ratio (LLR), loan-to-deposit ratio (LDR), inflation rate (INF), and economic growth rate (GDP). By using ordinary least square (OLS), fixed-effects model (FEM) and random-effects model (REM) approaches, the results show that bank size (SIZE), equity ratio (CAP), credit risk provision ratio (LLR), loan-to-total deposit ratio (LDR), and economic growth rate (GDP) have positive relationships with bank liquidity risk. Meanwhile, return on equity (ROE), bad debt ratio (NPL), and inflation rate (INF) negatively affect bank liquidity risk.