Chuyển mã ngôn ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ phổ biến trong song ngữ hoặc đa ngữ, được xác định khi người nói bắt đầu bằng một ngôn ngữ rồi chuyển sang một ngôn ngữ khác trong cùng một cuộc đàm thoại. Trong bài viết này, tác giả trình bày các chức năng của chuyển mã giữa tiếng Việt – ngôn ngữ 1 (L1) và tiếng Anh – ngôn ngữ 2 (L2) của giám khảo trong các cuộc thi âm nhạc trên truyền hình ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng và kết quả phân tích từ nguồn dữ liệu đã thu thập được (gồm 30 tập của ba chương trình các mùa thi khác nhau) cho thấy chuyển mã ngôn ngữ của giám khảo trong các chương trình này giữ chức năng về mặt diễn ngôn và chức năng xã hội. Các chức năng này đã được chỉ ra trong hầu hết các nghiên cứu trước đây về hiện tượng chuyển mã ngôn ngữ trong các môi trường giao tiếp khác nhau. Tuy nhiên, hầu như chưa có nghiên cứu nào được thực hiện với các chương trình trên truyền hình. Từ góc nhìn phản biện, tác giả đặt ra câu hỏi vì sao có xu hướng này của người nói trên truyền hình. Hi vọng kết quả của nghiên cứu này gợi mở hướng nghiên cứu cho chính bản thân tác giả và các tác giả khác trong tương lai về hiện tượng ngôn ngữ phổ biến này trong lĩnh vực giải trí trên truyền hình.Code-switching, a common language phenomenon in bilingualism or multilingualism, is identified when a speaker starts uttering in one language and then switches to another language in the same conversation. This paper reports the employment of judges’ code-switching between Vietnamese (L1) and English (L2) in their interactions with each other and candidates in music contests on Vietnamese TV shows, focusing on the functions of the speakers’ switches. Qualtive approach was applied for the research design and analysis of data collected (30 episodes of three seasonal contests) shows that the judges’ switches serve certain functions related to discourse and social functions which are in line with those found in previous studies of the same language practice in educational settings. Due to what has been found, with a critical view, the author poses a question concerning the reasons why there has been a tendency of speakers on TV shows to switch back and forth. It is hoped this opens further studies of the topic to the author as well as researchers of interest.