Bảng chữ cái trong tiếng Hàn có tên gọi là Hangeul. Hangeul bao gồm hệ thống nguyên âm và phụ âm, trong đó có 21 nguyên âm và 19 phụ âm. Trong đó, 21 nguyên âm tiếng Hàn được chia thành 10 nguyên âm đơn và 11 nguyên âm đôi. Trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, tác giả nhận thấy sinh viên năm thứ nhất sau khi đã được học về Hangeul đều chưa nhận thức đúng đắn về hệ thống nguyên âm, đặc biệt là chưa phân biệt được nguyên âm đơn và nguyên âm đôi. Do đó, bằng việc tiến hành khảo sát đối với 100 sinh viên năm thứ nhất, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích, đối chiếu số liệu, bài báo đã chỉ ra, phân tích đồng thời làm rõ những nguyên nhân khiến cho nhận thức của sinh viên về hệ thống nguyên âm tiếng Hàn chưa thực sự chính xác. Qua đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị giúp các nhà nghiên cứu, người dạy, người học, người biên soạn giáo trình tiếng Hàn nói chung phiên bản tiếng Việt nói riêng có thể rút ra được những phương pháp nghiên cứu, dạy, học và biên soạn giáo trình phù hợp, thống nhất với giáo trình tiếng Hàn, góp phần giúp người học có cái nhìn thống nhất hơn về hệ thống nguyên âm tiếng Hàn.The Korean Alphabet is called Hangeul. Hangeul is one of the most innovative scientific writing systems in the world. Like Vietnamese, Hangeul also includes a system of vowels and consonants, including 21 vowels and 19 consonants. In fact, 21 Korean vowels are divided into 10 single vowels and 11 diphthongs. In fact, by the teaching process, the author found that the first-year students were not properly aware of the vowel system when learning about Hangeul, especially not able to distinguish between single vowels and double vowels. Therefore, by conducting a survey for 100 first-year students of the Department of Korean Language and Culture, University of Foreign Languages, Hue University, combined with statistical methods, analyzing and comparing data, this article will point out, analyzing and clarifying the rationales causing students’ misleading perception of the Korean vowel system. Thereby, the author proposes some recommendations to help researchers, teachers, learners, and compilers of the Vietnamese curriculum to draw out research methods, teaching, learning and compiling teaching materials. The program is suitable and consistent with the Korean curriculum, contributing to helping learners have the most systematic viewpoints about the Korean vowel system.