Nhiệt độ khí là một thông số thiết yếu trong việc ước tính tốc độ sản xuất và mô hình áp suất bên trong đường ống sản xuất. Ba cơ chế truyền nhiệt có tên là dẫn truyền, đối lưu và bức xạ đã được áp dụng để xác định độ giảm nhiệt độ của chất khí. Các giếng khí có nhiệt độ đáy hố lớn hơn 160oC và tốc độ khí đạt 55 triệu ft3 tiêu chuẩn mỗi ngày (MMscf/d) cho thấy sự mất nhiệt do đối lưu cao hơn so với hai cơ chế còn lại. Sự dẫn điện là yếu tố chính trong việc giải thích sự khuếch tán nhiệt ra xung quanh ở đỉnh giếng. Nghiên cứu thể hiện sự tương đồng mạnh mẽ về giá trị so với dữ liệu hiện trường bằng cách kết hợp tương quan Grey và mô hình truyền nhiệt để dự đoán áp suất lỗ đáy với sai số xấp xỉ 3%. Ngoài ra, nhiệt độ khí ảnh hưởng đến dự đoán tốc độ khí thông qua độ nhớt khí và hệ số Z. Với thành phần khí phần lớn chứa C1 (70,5%), độ nhớt khí và hệ số Z ở đầu giếng không cao lần lượt là 0,017 cp và 0,92. Có thể có dòng hai pha, khi đó mô hình nhiệt độ dọc theo đường ống sản xuất là cần thiết để đảm bảo tốc độ sản xuất khí.