Trong tiếng Việt, từ làm, vốn là một vị ngữ hành động không biểu thị phương thức hành động, được ngữ pháp hóa trở thành một vị ngữ chuyên đánh dấu kết quả trong cấu tạo kết quả hoặc nhân quả. Bài viết này xem xét các biểu hiện của dấu hiệu kết quả làm về mặt cú pháp và ngữ nghĩa. Nói một cách ngắn gọn, diễn đạt mối quan hệ giữa một thực thể hoặc một sự kiện và một sự kiện do nó gây ra mà không nhất thiết phải có sự tác động trực tiếp hay cố ý hay không. Về cơ bản, làm thể hiện các quá trình quan hệ nhân quả chứ không phải là độ nhạy.