Thí nghiệm được tiến hành với các mẫu tinh khai thác từ 12 dê Saanen bằng âm đạo giả. Các mẫu tinh dê có hoạt lực tinh trùng ≥70%, nồng độ ≥2,5 tỷ tinh trùng/ml, thể tích tinh ≥0,7ml được pha loãng trong dung dịch Tyrode (Henning, 2015) theo tỷ lệ 19 rồi tra 0,5ml lên cột dung dịch albumin huyết thanh bò (cột dung dịch BSA) được tạo bởi 4ml dung dịch BSA 15% ở đáy ống thuỷ tinh dung tích 10ml và 4ml dung dịch BSA 6%, đặt ống nghiêng 45 độ và ủ 20 phút ở 37oC. Thu nhận các lớp 4ml dung dịch 15% BSA từ các ống phân tách của cùng một mẫu tinh dê, xác định hoạt lực tinh trùng, nồng độ tinh trùng và tỷ lệ tinh trùng mang thể F. Tinh thu nhận được ly tâm 2.000 vòng/phút trong 10 phút ở 5oC, thu cặn và trộn với dung dịch đông lạnh (Tris-Citrate-Glucose bổ sung 20% lòng đỏ trứng gà và 6% glycerol) đạt nồng độ 10 triệu tinh trùng/ml, đóng cọng rạ dung tích 0,25ml, ủ ở 5oC trong 120 phút, hơ cọng rạ cách mặt ni tơ lỏng 5cm trong 20 phút và dìm sâu 5cm trong ni tơ lỏng trong 20 phút rồi chuyển vào bình bi tơ trữ mẫu. Sau 30 ngày bảo quản trong ni tơ lỏng, cọng rạ được rã đông ở 37oC trong 60 giây (rã đông trực tiếp), sau đó trộn với dung dịch Tyrode theo tỷ lệ 11 và ủ ở 37oC trong 20 phút (rã đông trong dung dịch Tyrode), xác định hoạt lực tinh trùng và tỷ lệ tinh trùng kỳ hình. Các thí nghiệm lặp lại 12 lần. Kết quả cho thấy, số tinh trùng thu nhận sau phân ly qua cột dung dịch BSA đạt 14% tổng lượng tinh trùng ban đầu (mỗi ống dung dịch phân ly thu được trung bình 7,5 cọng tinh đông lạnh, một mẫu tinh của một dê đực phân ly được trung bình trong 20 cột dung dịch BSA), hoạt lực tinh trùng trên 90%, tỷ lệ tinh trùng mang thể F đạt 90%. Hoạt lực tinh trùng sau rã đông trực tiếp đạt trung bình 35%, hoạt lực tinh trùng sau rã đông trong dung dịch Tyrode đạt trung bình 45%.