Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau đến tôm hùm bông Panulirus ornatus giai đoạn con giống

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Duy Minh Mai, Vũ Thị Bích Duyên

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Nông nghiệp&Phát triển nông thôn, 2019

Mô tả vật lý: 62 - 68

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 388408

 Bài bảo này trình bày kết quả nghiên cứu tăng trưởng (SGR), tỉ lệ sống (SR) và hệ số chuyển đối thức ăn (FCR) của tôm hùm bông Panulirus ornatus từ Puerulus lên cỡ 20 g/con nuôi bảng thức ăn công nghiệp có hàm lượng protein khác nhau. Đối với tôm Puerulus, có 4 nghiệm thức tương ứng với 4 mức protein thô trong thức ăn 53,98
  55,72
  58,12 và 60,46%. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Ở mỗi nghiệm thức tôm được nuôi trong bể 150 lít ở mật đo 30 con/m2. Sau 84 ngày nuôi, SGR của tôm ở nghiệm thức sử dụng thức ăn có protein ở mức 58,12% cao hơn so với của tôm ở các nghiệm thức còn lại (p <
  0,05). Có sự khác nhau về FCR (p <
  0,05) nhưng không có khác nhau về SR giữa các nghiệm thức. Đối với tôm cỡ 10 g/con, có 4 nghiệm thức tương ứng với 4 mức protein thô trong thức ăn 49,58
  51,85
  53,98 và 55,72%. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Ở mỗi nghiệm thức tôm đuợc nuôi trong bể 1,28 m ở mật độ 18,75 con/m. Sau 54 ngày nuôi, SGR của tôm ở nghiệm thức dùng thức ăn có protein ở mức 55,72% cao hơn so với của tôm ở các nghiệm thức còn lại (p <
  0,05). Có sự khác nhau về FCR (p <
  0,05) nhưng không có khác nhau về SR (p >
  0,05) giữa các nghiệm thức. Đối với thức ăn có 11,1-11,5% lipid, nhu cầu protein trong thức ăn của tôm hùm bông từ Puerulus đến 20 g/con được ước tính là 58516043 %. Kết quả thu được rất có ý nghĩa trong phát triển thức ăn công nghiệp cho nuôi tôm hùm ở giai đoạn giống. 
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH