Bài bảo này trình bày kết quả nghiên cứu tăng trưởng (SGR), tỉ lệ sống (SR) và hệ số chuyển đối thức ăn (FCR) của tôm hùm bông Panulirus ornatus từ Puerulus lên cỡ 20 g/con nuôi bảng thức ăn công nghiệp có hàm lượng protein khác nhau. Đối với tôm Puerulus, có 4 nghiệm thức tương ứng với 4 mức protein thô trong thức ăn 53,98
55,72
58,12 và 60,46%. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Ở mỗi nghiệm thức tôm được nuôi trong bể 150 lít ở mật đo 30 con/m2. Sau 84 ngày nuôi, SGR của tôm ở nghiệm thức sử dụng thức ăn có protein ở mức 58,12% cao hơn so với của tôm ở các nghiệm thức còn lại (p <
0,05). Có sự khác nhau về FCR (p <
0,05) nhưng không có khác nhau về SR giữa các nghiệm thức. Đối với tôm cỡ 10 g/con, có 4 nghiệm thức tương ứng với 4 mức protein thô trong thức ăn 49,58
51,85
53,98 và 55,72%. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Ở mỗi nghiệm thức tôm đuợc nuôi trong bể 1,28 m ở mật độ 18,75 con/m. Sau 54 ngày nuôi, SGR của tôm ở nghiệm thức dùng thức ăn có protein ở mức 55,72% cao hơn so với của tôm ở các nghiệm thức còn lại (p <
0,05). Có sự khác nhau về FCR (p <
0,05) nhưng không có khác nhau về SR (p >
0,05) giữa các nghiệm thức. Đối với thức ăn có 11,1-11,5% lipid, nhu cầu protein trong thức ăn của tôm hùm bông từ Puerulus đến 20 g/con được ước tính là 58516043 %. Kết quả thu được rất có ý nghĩa trong phát triển thức ăn công nghiệp cho nuôi tôm hùm ở giai đoạn giống.