Về nguyên tắc, chủ sở hữu sáng chế có độc quyền trong việc sử dụng, khai thác sáng chế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chủ sở hữu sáng chế không có quyền ngăn cấm người khác sử dụng, khai thác sáng chế mà mình đang nắm giữ. Những trường hợp này được gọi là "
giới hạn quyền"
(hay "
hạn chế quyền"
) cảu chủ sở hữu sáng chế và được quy định tại khoản 2 Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Những trường hợp hạn chế quyền của chủ sở hữu sáng chế theo quy định của pháp luật Việt Nam nhìn chung phù hợp với pháp luật quốc tế. Mặc dù vậy, một số quy định vẫn còn tồn tại bất cập, thiếu sót. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích những trường hợp hạn chế quyền của chủ sở hữu sáng chế theo quy định cảu luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành, đồng thời chỉ ra những bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện trên cơ sở nghiên cứu so sánh với pháp luật sở hữu trí tuệ của Cộng hòa Pháp.