Theo Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ TN&
MT), Việt Nam hiện có 108 lưu vực sông (LVS) với khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn (chiều dài từ 10 km trở lên), trong đó có 9 hệ thống sông lớn (diện tích lưu vực (LV) lớn hơn 10.000 km2 ), bao gồm Hồng, Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và sông Cửu Long. Tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm khoảng 830-840 tỷ m3 , trong đó hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chỉ có khoảng 310-320 tỷ m3được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Lượng nước bình quân đầu người trên 9.000 m3 /năm. Nước dưới đất cũng có tổng trữ lượng tiềm năng khoảng 63 tỷ m3 /năm, phân bố ở 26 đơn vị chứa nước lớn, nhưng tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ và khu vực Tây Nguyên. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có khoảng 2.900 hồ chứa thủy điện, thủy lợi tương đối lớn (dung tích từ 0,2 triệu m3trở lên) đã vận hành, đang xây dựng hoặc đã có quy hoạch xây dựng, với tổng dung tích các hồ chứa trên 65 tỷ m3 . Ngoài ra còn rất nhiều ao, hồ nhỏ tại các đô thị và vùng nông thôn trên cả nước.