Nghiên cứu đánh giá hiệu quả chọn lọc giống cá sặc rằn (Trichopodus pectoralis Regan, 1910) được thực hiện qua hai giai đoạn ương và nuôi giữa đàn cá chọn lọc và đàn cá đối chứng. Kết quả ương sau 2,5 tháng, đàn cá chọn lọc có khối lượng (9,19 ± 1,77 g/con), tỉ lệ sống (29,7 ± 2,1%), hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) (1,22 ± 0,01) và năng suất cá ương (13.663 ± 1.453 kg/ha) tốt hơn so với đàn cá đối chứng (P <
0,05) (các chỉ tiêu lần lượt là 7,47 ± 1,49 g/con, 21,3 ± 3,1%, 1,33 ± 0,01 và 7.980 ± 1.326 kg/ha). Ở giai đoạn nuôi (7 tháng) đàn cá chọn lọc tiếp tục thể hiện tăng trưởng (143,1 ± 17,7 g/con), tỉ lệ sống (88,7±1,53%), FCR (2,12 ± 0,05) và năng suất (38.051 ± 668 kg/ha) khác biệt có ý nghĩa so với đàn cá đối chứng (P <
0,05)(132,4 ± 15,3 g/con, 82,7 ± 3,06%, 2,29 ± 0,02 và 31.632 ± 563 kg/ha). Hệ số biến động (CV) giữa hai đàn cá khác biệt không có ý nghĩa (P >
0,05) ở giai đoạn ương và nuôi, hệ số di truyền của cá sặc rằn là (0,75 ± 0,21). Như vậy, đàn cá sặc rằn chọn lọc tập hợp nhiều yếu tố tăng trưởng nhanh góp phần tạo ra con giống chất lượng, cung cấp hiệu quả cho các mô hình nuôi tốt hơn so với đàn cá đối chứng.