Kết quả phân tích thành phần hóa học một số nguyên liệu giàu protein sản xuất thức ăn chăn nuôi từ năm 2006 đến năm 2020

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Đức Hảo Đào, Thị Thu Lan Đỗ, Công Sơn Nguyễn

Ngôn ngữ: Vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Khoa học công nghệ Chăn nuôi 2021

Mô tả vật lý: 58-70

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 393310

 Mục tiêu cung cấp cơ sở dữ liệu tham khảo tin cậy cho các nhà nghiên cứu về dinh dưỡng, lên khẩu phần thức ăn chăn nuôi và phục vụ giảng dạy. Bổ sung cho bảng thành phần hóa học khi tái bản cuốn "Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, gia cầm Việt Nam". Số liệu được thống kê, xử lý trong thời gian 15 năm từ năm 2006 đến năm 2020 tại Phòng phân tích thức ăn và sản phẩm chăn nuôi. Phương pháp phân tích là các tiêu chuẩn của ngành (TCN), tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) được quy định cho xác định thành phần hóa học bao gồm vật chất khô, độ ẩm, protein thô, protein thực, mỡ thô, xơ thô, tro thô, canxi, phospho, NaCl, NH3, ure và cát.. .trong nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi. Kết quả thu được từ 5 nguồn nguyên liệu thức ăn giàu protein cho thấy: Mua bột cá: ở giai đoạn từ 2006 đến 2020 thì các chỉ số thành phần hóa học có sự thay đổi tăng lên ở các chỉ tiêu như vật chất khô là 90,68% so với 83,49%
  protein thô là 64,85% so với 55,79%
  mỡ thô là 9,92 so với 5,58 và giảm ở các chỉ tiêu như: tro thô 21,60 so với 31,67
  canxi là 5,96 so với 6,92 theo công bố năm 2001
  Màu khô đậu tương: Các chỉ số như protein thô, tro thô, phospho và xơ thô không có sự biến động đáng kể về giá trị trung bình cộng giữa công bố năm 2001 so với giai đoạn từ 2006 đến năm 2020, chỉ có các chỉ tiêu mỡ thô, canxi là có sự biến động nhiều hơn. Màu khô cải: Do số lượng mẫu có thể quy về phần trăm vật chất khô quá ít (công bố năm 2001, 02 mẫu, giai đoạn 2006 đến 2020 có 5 mâu) nên độ biên động của chỉ tiêu mỡ thô là 6,10% công bố năm 2001 so với 2,57%
  protein thô là 34,90% công bố năm 2001 so với 41,22% của giai đoạn 2006 đến 2020 nên chưa phản ánh đúng giá trị thực, còn các chỉ tiêu như vật chất khô, protein thô, tro thô thì không có sự sai khác của giá trị trung bình. Màu khô lạc: Chỉ tiêu protein thô, mỡ thô có sự sai khác của giá trị trung bình giữa công bố năm 2001 với giai đoạn 2006 đến 2020 do số lượng mẫu có đủ điều kiện quy về phần trăm vật chất khô còn hạn chế, nên số liệu chưa đại diện. Màu bột thịt xương: Không thấy có sự sai khác của công bố năm 2001 so với giai đoạn từ năm 2006 đến 2020: đó là vật chất khô, còn lại các chỉ tiêu protein thô, mỡ thô, tro thô, canxi, photpho có sự sai khác nhưng không đáng kể của công bố năm 2001 so với giai đoạn năm 2006 đến 2020 có thể do so lượng mẫu có đủ điều kiện quy về phần trăm vật chất khô còn hạn chế, hơn nữa lỵ do điều đó còn thể hiện qua độ lệch chuẩn còn cao từ 3,01 đến 8,74 của giai đoạn 2006 đến 2020 và từ 3,67 đến 6,51 của công bố năm 2001. Sự khác nhau ở một số chỉ tiêu của nguyên liệu là bột cá, chỉ nêu nên một vấn đề là công nghệ đánh bắt và chế biến tân tiến, hiện đại đã làm tăng chất lượng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH