Đánh giá mức độ phù hợp của phương pháp tính thể tích tuyến vú dựa trên đo đạc giải phẫu và dựa trên phim X-quang tuyến vú so với thể tích bệnh phẩm vú. Nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên 240 phụ nữ điều trị tại Bệnh viện K tuổi từ 18 đến 78. Các phụ nữ này được đo các kích thước tuyến vú bằng thước đo dựa trên các mốc giải phẫu, tính thể tích tuyến vú dựa trên các kích thước và tính thể tích vú dựa trên các kích thước đo trên phim X-quang vú tư thế thẳng. Trung bình thể tích bệnh phẩm tuyến vú, thể tích đo bằng phương pháp giải phẫu và phương pháp X-quang lần lượt là: 372,6 ± 151,2 ml
395,3 ± 180,7 ml và 397,1 ± 170,3 ml. Phương pháp tính thể tích vú dựa trên phim chụp X-quang có mức độ phù hợp cao hơn (r = 0,905) so với đo đạc giải phẫu (r = 0,875). Tính thể tích vú bằng phương pháp đo giải phẫu và X-quang tuyến vú có mức độ phù hợp cao. Hai phương pháp này đơn giản và có thể áp dụng thường quy trong phẫu thuật tuyến vú tại Việt Nam.