Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu điều tra của 3 ô nghiên cứu định vị (ONC), các ô nghiên cứu có diện tích 1 ha, kich thước (100 m x 100 m). Tất cả các cãy có đường kính từ 6 cm trở lên trong ô đều đưrợc xác định tên loài và được đánh dấu bảng biển kim loại màu trắng, Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ lâm phần giảm đi sau sáu năm mặc dù có sự xuất hiện của các cây tái sinh bổ sung, tổng số có 2.326 cây điều tra được vào năm 2019, ít hơn so với năm 2013 là 70 cây. Giá trị trung bình về đường kính ngang ngực và chiếu cao vut ngọn đều tăng sau sáu năm. Về kết cấu loài cây gỗ, ở cả hai lần điều tra, số loài tham gia vào công thức tổ thành (CTTT) chi có từ 2 đến 5 loài và thành phần loài ưu thế của các trạng thái rừng năm 2013 và 2019 không có sự thay đổi nhiều. Với cả 3 trạng thái rừng ở hai lần điều tra đều xuất hiện nhóm loài ưu thế. Phân bố Weibull ba tham số mô phỏng tốt cho phân bố N/D cả 3 ONC ở hai lần điều tra và mô phỏng tốt cho phân bố N/H cho 2/3 ONC. Về đa dạng loài tầng cây cao, các chỉ số đa dạng đều tăng sau sáu năm, ngoại trừ chi số Simpson ở ONC 2 và ONC 3 và trạng thái rừng II, là đa dạng nhất, tiếp theo là trạng thái IIIA3 Và ít đa dạng hơn là trạng thái IIIAl