Rừng phòng hộ ở Việt Nam chiếm 31,66% tổng diện tích rừng toàn quốc, có vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn sinh thái Quốc gia, được quản lý bởi 259 tổ chức, trong đỏ 229 Ban Quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH). Tuy nhiên, công tác quản lý còn nhiều vướng mắc, hạn chế, đặc biệt là cơ chế chính sách, cơ hội tiếp cận, khả năng huy động và thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài chính cho các khu rừng phòng hộ. Khả năng độc lập và tự chủ về tài chính của các BQLRPH rất thấp, việc sử dụng các nguồn tài chính này chưa hiệu quả và thiếu tính bền vững. Mục tiêu của của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tình hình thực hiện chinh sách đầu tư và cơ chế tài chính, xác định các vấn đề, bất cập và khoảng trống trong thực hiện các chính sách này ở các BQLRPH, trên cơ sở đó đề xuất bổ sung, điều chỉnh các chính sách đầu tư, tài chính bền vững cho hoạt động của hệ thống các khu rừng phòng hộ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguồn tài chính cho hoạt động của các BQLRPH chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước, một phần nhỏ từ chi trả dịch vụ môi trường rừng và một số hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Các bất cập và hạn chế về đầu tư và cơ chế tài chính đối với rừng phòng hộ được thể hiện ở 3 nhóm vấn đề: (i) về đầu tư và cơ chế tài chính cho bảo vệ rừng phòng hộ (ii) về quyền tự chủ về tài chính của các BQLRPH và cơ chế chia sẻ lợi ích đối với rừng phòng hộ (iii) về thu hút các nguồn tài chính ngoài ngân sách vào rừng phòng hộ và sử dụng diện tích rừng sản xuất vào sản xuất kinh doanh của các BQLRPH. Các ý kiến để xuất nhằm thiết lập cơ chế tài chính bền vững cho các BQLRPH tập trung vào hai nhóm: (i) 8 để xuất về cơ chế chính sách huy động các nguồn tài chính cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ (ii) 4 đề xuất về quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính của các BQLRPH.