Đánh giá việc thực hiện theo dõi sau mổ vi phẫu qua hồ sơ điều dưỡng (HSĐD) tại khoa Phẫu thuật Hàm mặt - Tạo hình - Thẩm mỹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả về quá trình theo dõi sau mổ người bệnh phẫu thuật vi phẫu nối ghép bộ phận đứt rời và chuyền vạt tự do từ 2015-2019. Kết quà: 153 trường hợp có đầy đủ hồ sơ nghiên cứu trong đó 70,6% (108) trường hợp là nối ghép chi đứt rời 6,5% (10) lột da đầu, 22,9% (35) tạo hình bằng vạt vi phẫu. Chỉ định theo dõi tại chỗ nối ghép sau mổ bao gồm: 75,8% yêu cầu về theo dõi màu sắc, 54,2% theo dõi nhiệt độ, 62,1% theo dõi hồi lưu mao mạch. 35 vạt vi phẫu có 46,6% được yêu cầu theo dõi Doppler. 24,1% có yêu cầu về tần suất theo dõi là 30 phút -1 h/lần. Việc theo dõi sau mổ được thực hiện và ghi lại trong hồ sơ điều dưỡng như sau: 72,4% theo dõi màu sắc, 14,6% theo dõi về hồi lưu mao mạch, 52,2% theo dõi nhiệt độ, 34,9% lượt theo dõi đánh giá bằng siêu âm Doppler, 10,8% theo dõi về mức độ sưng nề, 10,8% theo dõi đánh giá đau và 56,3% có ghi chép theo dõi về tình trạng chảy dịch máu từ vết mổ. Tần suất ghi lại việc theo dõi lá 3 giờ 11 phút trong 24 giờ đầu và sau 24h trung bình là 3 giờ 41 phút. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tần suất theo dõi trong 24 giờ đầu và những ngày tiếp theo sau mổ, cũng như giữa nhóm có biến chứng và không có biến chứng (p >
0,05). Kết luận: HSĐD thể hiện việc thực theo dõi tại chỗ sau phẫu thuật vi phẫu nối ghép bộ phận đứt rời và chuyển vạt tự do còn chưa đáp ứng được yêu cầu chỉ định của phẫu thuật viên, cần cải tiến công tác ghi HSĐD khoa học, phù hợp hơn với tình trạng diễn biến của người bệnh và điều kiện làm việc. Đồng thời, cần tăng cường đào tạo nâng cao trình độ và nhận thức của điều dưỡng trong theo dõi và ghi HSĐD.