Nhà máy xử lý nước thải (XLNT) TP Cà Mau đang được quy hoạch xây dựng sẽ có nhiệm vụ xử lý nước thải sinh hoạt với công suất 8.000 m3/ngày đêm. Sau khi được xử lý bằng phương pháp hóa lý, nước thải của nhà máy sẽ được thoát ra kênh Thống Nhất và sông Tắc Thủ. Do đó, bài viết này ứng dụng mô hình MIKE21 để tính toán phạm vi, khoảng cách và nồng độ các chất ô nhiễm đặc trưng cho nước thải sinh hoạt bao gồm TSS, BOD5, NH4+ và tổng Coliforms vào mùa khô, nhằm cung cấp bằng chứng cho công tác quản lý tài nguyên nước. sau khi xây dựng nhà máy. Hai kịch bản đã được thiết lập
ở kịch bản 1 (S1), nhà máy XLNT vận hành kém hiệu quả, nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn. Tính cực đại trong trường hợp hiệu suất xử lý = 0
ở kịch bản 2 (S2) nhà máy XLNT vận hành hiệu quả. Nồng độ 4 thành phần trong nước thải đều thấp hơn giá trị tới hạn của QCVN 142008/BTNMT (cột B, K = 1). Kết quả cho thấy nguồn thải sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn nước kênh Thống Nhất cả hạ lưu và thượng lưu do chế độ bán nhật triều không đều trong trường hợp nhà máy gặp sự cố (S1). Trong trường hợp nhà máy vận hành ổn định (S2), nồng độ các chất ô nhiễm tại tất cả các vị trí sẽ thấp hơn giá trị tới hạn của QCVN 08-MT2015/BTNMT (cột B1) trừ TSS. Sự biến đổi nồng độ thể hiện rõ theo thời gian và khoảng cách sau khoảng 1 giờ và cách nguồn khoảng 1 km, nồng độ các chất ô nhiễm đạt giá trị cực đại, sau đó giảm dần và kết thúc ở khoảng 4 km sau 7 giờ., Tóm tắt tiếng anh, The wastewater treatment plant (WWTP) in Ca Mau city, which is being planned for construction, will be responsible for treating domestic wastewater with a capacity of 8,000 m3/day. After being treated by the physic-biological method, the plant's wastewater will be discharged into the Thong Nhat canal and the Tac Thu river. As a result, this article applies the MIKE21 model to calculate the range, the distance, and the concentration of typical pollutants for domestic wastewater, including TSS, BOD5, NH4+, and total Coliforms in the dry season, to provide evidence for water resource management following the plant's construction. Two scenarios were established
in scenario 1 (S1), the WWTP is being operated inefficiently, and the wastewater has not been treated up to standards. Maximum calculation in case the processing performance = 0
in scenario 2 (S2), the WWTP is being operated efficiently. The concentration of 4 components in wastewater is lower than the critical value of QCVN 142008/BTNMT (column B, K = 1). The results show that the waste source will highly affect the water in the Thong Nhat canal both downstream and upstream due to the irregular semi-diurnal tide regime in case of the plant experiences problems (S1). In the case of the stable operation plant (S2), the pollutant concentrations at all positions will be lower than the critical value of QCVN 08-MT2015/BTNMT (column B1) except for the TSS. Concentration variation is evident over time and distance after about 1 hour and about 1 km from the source, the concentration of pollutants reaches the maximum value, then gradually decreases and ends at about 4 km after 7 hours.