Nghiên cứu được thực hiện vào đầu mùa hè tại Công ty Đầu tư và Phát triển Chăn nuôi gia công Dabaco Việt Nam nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của các vị trí khác nhau trong chuồng kín đến nhiệt độ, độ ẩm và một số chỉ tiêu năng suất của gà đẻ trứng thương phẩm. Chọn và phân ngẫu nhiên 792 gà mái đẻ trứng thương phẩm Novogen Brown lúc 33 tuần vào các lồng, mỗi lồng 8 con. Các lồng được đặt 3 vị trí khác nhau đầu chuồng, giữa và cuối chuồng, mỗi vị trí gồm 33 lồng, đặt trên 3 tầng, mỗi tầng 11 lồng. Đo nhiệt độ, độ ẩm ngoài trời và trong chuồng nuôi tại các vị trí khác nhau tại 3 thời điểm 9 giờ, 12 giờ và 15 giờ hàng ngày. Kết quả cho thấy Nhiệt độ trong chuồng nuôi thấp hơn nhiệt độ ngoài trời khoảng 4-50°C. Nhiệt độ trung bình ở đầu chuồng nuôi là thấp nhất và nhiệt độ trung bình ở cuối chuồng nuôi là cao nhất. Ngược lại, độ ẩm trung bình ở đầu chuồng nuôi là cao nhất và ẩm độ trung bình ở cuối chuồng nuôi là thấp nhất. Toàn bộ chuồng nuôi ở các thời điểm khác nhau đều có THI ở mức độ nguy hiểm, mức độ THI khẩn cấp tại cả 3 thời điểm ở khu vực cuối chuồng nuôi và tại thời điểm 12 giờ ở khu vực giữa chuồng nuôi. Thân nhiệt trung bình, tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và khối lượng trứng của gà cao nhất ở đầu và giữa chuồng nuôi, thấp nhất ở cuối chuồng nuôi. Thu nhận thức ăn trong ngày của gà cao nhất ở đầu và giữa chuồng nuôi, thấp nhất ở cuối chuồng nuôi. Ngược lại tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng, tỷ lệ hao đàn của gà thấp nhất ở đầu và giữa chuồng nuôi, cao nhất ở cuối chuồng nuôi., Tóm tắt tiếng anh, The study was carried out at the beginning of the summer at Investment and Development Company, Dabaco to assess the effects of different positions in the housing to temperature, humidity and performance of laying hens. Choose and randomize 792 laying hens Novogen Brown at 33 weeks of age into cages, each cage 8 individuals. The cages were placed 3 different positions gable, middle and end of the barn, each consisting of 33 cages, placed on 3 floors, each floor 11 cages. The temperature and humidity outdoors and in the barn were measured at different locations at 9h, 12h and 15h daily. The results showed the temperature in the barn was lower than the outdoor temperature about 4-50°C. The average temperature at the gable was lowest and the average temperature at the end was highest, the opposite, the average humidity at the gable was highest and the average humidity at the end was lowest. All housing at different times had THI at the dangerous level, the THI urgent level of at all 3 time points at the end of the housing and at 12h in the middle of the housing. The average body temperature, egg production, cumulated eggs and egg weight were highest at the gable and the middle, lowest at the end. The feed consumption per day was highest at the top and the middle, lowest at the end. In contrast, FCR, the loss ratio at the top and the middle were lowest, highest at the end.