Ảnh hưởng của phương thức cho ăn lên chất lượng nước, sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá trê vàng (Clarias macrocephalus) nuôi trong hệ thống tuần hoàn

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: #VALUE!

Ngôn ngữ: Vie

Ký hiệu phân loại: 639 Hunting, fishing, conservation, related technologies

Thông tin xuất bản: Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, 2019

Mô tả vật lý:

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 415627

Ảnh hưởng của phương thức cho ăn lên chất lượng nước, sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá trê vàng (Clarias macrocephalus) trong hệ thống tuần hoàn được khảo sát trong thời gian 90 ngày. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm tối ưu hóa hiệu quả sử dụng thức ăn, quản lý chất lượng nước tốt hơn để cá đạt sinh trưởng và tỷ lệ sống tốt nhất, đồng thời làm cơ sở để thiết kế và vận hành hệ thống tuần hoàn nuôi cá trê vàng. Cá thí nghiệm có khối lượng trung bình 9,99 ± 1,36 g/con được thả nuôi với 4 nghiệm thức là cho ăn liên tục và cho ăn 2, 3, 4 lần/ngày. Cá được cho ăn theo nhu cầu bằng thức ăn công nghiệp 41% đạm. Trong thời gian thí nghiệm, pH của các nghiệm thức dao động từ 6,8 - 8,7, có xu hướng giảm dần theo sự gia tăng lượng thức ăn và thời gian nuôi. Các chỉ tiêu TAN, NO2 - có sự biến động trong suốt vụ nuôi. Hàm lượng NO2 - dao động từ 0,000 - 0,869 mg/L. Nhìn chung, các chỉ tiêu chất lượng nước đều trong giới hạn thích hợp cho cá nuôi. Nghiệm thức cho cá ăn 2 lần/ngày cho kết quả nuôi tốt nhất với chất lượng nước ổn định, sinh trưởng đặc biệt là 2,43 ± 0,49%/ ngày, tỉ lệ sống đạt 70%, với năng suất 66,75 ± 11,89 kg/m³, hệ số tiêu tốn thức ăn là 1,20 ± 0,10 và lượng nước sử dụng là 0,22±0,04 m³/kg cá., Tóm tắt tiếng anh, Effect of feeding techniques on water quality, growth and survival of bighead catfish (Clarias macrocephalus) reared in a recirculating system were studying for 90 days. This study aimed to optimize the efficient use of feed, manage the water quality for improving fi sh growth and survival rate. The experiment stocked fish (initial body weight of 9.99 g ± 1.36) into four treatments continuous feeding and feeding frequency of 2, 3, 4 times per day. Fish were fed at adlibitum using 41% protein pellet. During the experiment, pH of all treatments ranged from 6.8 to 8.7 and tended to decrease with the increase of feed intake and culture duration. TAN and NO2 - fl uctuated throughout the experiment. NO2 - ranged from 0.000 to 0.869 mg / L. Generally, water quality parameters were in suitable ranges for fish growth. Feeding frequency of twice a day resulted in the optimal results with stable water quality, growth rate of 2.43 ± 0.49% / day, survival rate of 70%, productivity of 66.75 ± 11.89 kg/m³, feed conversion rate of 1.20 ± 0.10 and water use of 0.22 ± 0.04 m³/kg of fish.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH