Nhằm hướng tới trở thành thủ phủ tôm của cả nước, Bạc Liêu đã định hướng phát triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật đối với nền công nghiệp này. Bạc liêu được biết đến như là một trong những tỉnh có hoạt động nuôi tôm phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long với các mô hình nuôi khác nhau như là bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá sự biến động chất lượng nước theo không gian và thời gian nhằm cung cấp thông tin cho người nuôi trong việc quản lý chất lượng nước trong quá trình nuôi. Mẫu nước tầng mặt được thu hàng tháng tại 5 điểm ở các cửa sông trọng yếu trong khu vực nuôi tôm của tỉnh trong suốt 1 năm. Kết quả cho thấy chất lượng nước tự nhiên tại khu vực nuôi ít bị biến động, đạt yêu cầu theo các quy chuẩn về chất lượng nước tầng mặt, phù hợp đối với việc sử dụng nguồn nước phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng thủy sản của vùng, đặc biệt là nghề nuôi tôm nước lợ. Riêng hàm lượng vật chất lơ lửng TSS, H2S và PO4 3- trong nước tại một số điểm thu khá cao so với một số quy chuẩn về quản lý chất lượng nước. Hầu hết các yếu tố chất lượng nước tại các điểm thu BL1 (sông Nhà Mát - TP. Bạc Liêu) và BL5 (cửa sông Gành Hào - Đông Hải) rất biến động theo mùa. Hơn nữa chất lượng nước có khuynh hướng kém vào mùa khô và giao mùa khô-mưa tại vùng cửa sông Đông Hải (BL5)., Tóm tắt tiếng anh, With a view to becoming the national shrimp capital, authorities in Bac Lieu has oriented the development and applications of science and technology in shrimp industry. Bac Lieu province is known as a one of the most developed aquaculture areas in the Mekong Delta region with various systems such as semi-intensive, intensive, and super-intensive shrimp farming. Therefore, the aim of this study was to assess the quality of water supply resources surrounding shrimp culture ponds to provide fundamental understanding about the spatial and seasonal variations of water quality in Bac Lieu where the shrimp culture has been intensified. Water samples were monthly collected at 5 sites in key features of estuaries in the shrimp culture area of the province over a year. Results showed that the water quality in the shrimp farming area is fewer fluctuations, still qualified the requirements of the national standards, and suitable as water supply for shrimp culture in the research area. However, it could be noted that concentrations of TSS, H2S, and PO4 3- were relatively high compared to the standards for marine shrimp. Considering the BL1 (Nha Mat estuary - Bac Lieu city) and BL5 (Ganh Hao estuary - Dong Hai) sites, most water quality parameters were highly fluctuated among the seasons. Additionally, poor water quality occurred in the dry and dry-rainy seasons at the Ganh Hao estuary (site BL5).