Đánh giá vai trò cảu rong biển và thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Mỹ Lan Lam, Hoàng Vinh Nguyễn, Thị Ngọc Anh Nguyễn, Ngọc Hải Trần

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Nông nghiệp&Phát triển nông thôn, 2019

Mô tả vật lý: 116-125

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 422819

 Khảo sát được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp 90 hộ nuôi tôm sú quảng canh cải tiến (QCCT) ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau nham đánh giá vai trò và tác động của rong biển và thực vật thủy sinh (IVTS) đến năng suất và lợi nhuận của mô hình. Các hộ nuôi tôm QCCT được chọn phỏng vấn chia thành 3 nhóm về tình trạng rong biển và TVTS xuất hiện tự nhiên trong ao. Nhóm 1 ao nuôi tôm QCCT có sự hiện diện tự nhiên của nhiều loại rong biển và TVTS nhưng không có rong câu (rong hon hop), nhóm 2 ao nuôi tôm QCCT có trong câu xuất hiện tự nhiên ưu thế hơn các loại rong biển và TVTS khác và nhóm 3 ao nuôi tôm QCCT không có sự hiện diện của rong biển và TVTS nhưng có sự hiện diện của cây đước hoặc cây mắm chiếm 20-30% diện tích ao. Kết quả khảo sát từ ý kiến nông hộ cho biết có 4 loại rong biển trong câu Gracilaria, rong xanh Cladophoraceae, rong bún Enteromorpha và rong nhớt Spirogyra) và 3 loại TVTS (rong đá Najas, rong đuôi chồn Ceratophyllum và cỏ năn Eleocharis) thường xuất hiện tự nhiên trong ao nuôi tôm QCCT, trong đó rong câu được ưa thích duy trì trong ao nuôi nhiều nhất (35% số hộ), kế đến là rong đá (23,3% số hộ), các loại rong khác có tỉ lệ thấp hơn. Đa số ý kiến nông hộ (81,7-91,7%) cho rằng rong biển và TVTS có vai trò quan trọng trong ao nuôi tôm QCCT như cải thiện chất lượng nước, làm thức ăn trực tiếp, nơi trú ẩn cho tôm, cua và tạo nguồn thức ăn tự nhiên. Bên canh đó, khi phát triển quá mức chúng cũng gây ra một số trở ngại nhất định như làm nước ao rất trong, gây thối nước khi tàn lụi, cản trở hoạt động sống của tôm, cua và làm giảm năng suất tôm nuôi. Nhóm 2 đạt năng suất tôm sú và lợi nhuận ca nhất (336,81±92,7 kg/ha/năm và 70,2±26,4 triệu đồng/ha/nam), kế đến là nhóm 1 (282,1±122,2 kg/ha/năm và 57,8±29,0 triệu đồng/ha/năm) và hai nhóm này cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<
 0,05) so với nhóm (107,7±42 kg/ha/năm và 39,0±17,1 triệu đồng/ha/năm). Ngoài ra, ao nuôi tôm QCCT duy trì độ phủ rong biển và TVTS ≤50% thu được năng suất tôm sú và lợi nhuận cao hơn nhiều so với ao có độ phủ >
 50% và nuôi tôm QCCT không có rong biển và TVTS.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH