Thí nghiệm xác định mật độ trồng thích hợp cho cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) sử dụng làm thức ăn chăn nuôi được thực hiện trong 2 năm, từ 2017 đến 2018 tại Trường Đại học Nông Lâm, tỉnh Thái Nguyên. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức (NT), từ NT1 đến NT4 tương ứng với 4 mật độ trồng là 125.000
100.000
83.500
71.500 cây/ha. Mỗi nghiệm thức có diện tích 24 m2 lặp lại 5 lần. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn. Kết quả như sau Sản lượng vật chất khô và protein thô trung bình/ha/năm có xu hướng giảm xuống khi mật độ trồng giảm ở năm thứ nhất và có xu hướng tăng lên khi mật độ trồng giảm ở năm thứ hai và trung bình hai năm. Tuy nhiên, sản lượng vật chất khô và protein thô trung bình/ha/năm của năm thứ nhất, thứ hai và trung bình hai năm sai khác nhau không rõ rệt (P>
0,05). Trồng Moringa bằng cây con ươm trong bầu thì chi phí cho cây giống chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí dẫn đến chi phí cho sản xuất 1 kg bột lá cao hơn ở mật độ trồng dày và thấp hơn ở mật độ trồng thưa. Nếu quy ước chi phí cho sản xuất 1 kg bột lá của NT1 là 100% thì NT2, NT3 và NT4 tương ứng là 88,64%, 80,39% và 75,34%. Vì vậy, trồng Moringa để sản xuất thức ăn cho gia súc với mật độ khoảng 71,5 - 83,5 nghìn cây/ha được cho là hợp lý.