So sánh bệnh - chứng hồi cứu các bệnh nhân được phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc có Robot hỗ trợ tại khoa Phẫu thuật Ung bướu tiết niệu, bệnh viện Bình Dân từ tháng 11/2021 tới tháng 11/2022. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm nhóm không áp dụng mũi treo (nhóm 1) và nhóm áp dụng mũi treo (nhóm 2). Trước khi nối cổ bàng quang vào niệu đạo, nhóm 2 được áp dụng mũi treo Bollens (sử dụng chỉ polyglactin 2.0 treo mặt sau mô liên kết của cân cơ thắt vân niệu đạo vào cung gân của cơ nâng hậu môn hai bên). Tại thời điểm sau rút thông niệu đạo 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, bệnh nhân được đánh giá về tiểu có kiểm soát bằng bảng điểm EPIC (Expanded Prostate Cancer Index Composite) qua điện thoại. Tiểu có kiểm soát được định nghĩa là không sử dụng tã hoặc không són tiểu ban ngày. Kết quả Tỷ lệ bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi thấp 42.5% (17/40), trong đó 9 bệnh nhân thuộc nhóm 1 (nhóm chứng) và 8 bệnh nhân thuộc nhóm 2. Không có sự khác biệt về tuổi tác, BMI, thể tích tuyến tiền liệt và nồng độ PSA huyết thanh giữa 2 nhóm. Thời gian phẫu thuật, lượng máu mất giữa hai nhóm cũng khác biệt không ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên phân độ ISUP của nhóm 1 cao hơn nhóm 2 (p<
0.05). Tỉ lệ bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh từ pT3 trở lên của nhóm 1 cao hơn hẳn so với nhóm 2 (77.8% so với 12.5%). Tỉ lệ diện cắt còn tế bào ác tính ở nhóm 1 là 66.7% so với 0% ở nhóm 2. 75% bệnh nhân ở nhóm 2 được bảo tồn bó mạch thần kinh 2 bên so với 44.4% ở nhóm 1. Các bệnh nhân nhóm 2 có cải thiện đáng kể mức độ kiểm soát nước tiểu sau rút thông niệu đạo, bao gồm sử dụng ít tã/ngày hơn nhóm 1 (p<
0.05). Tỉ lệ tiểu có kiểm soát ở nhóm 2 là 37.5%, 50%, 62.5% và 75% ở 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng sau rút thông niệu đạo so với 0%, 22.2%, 33.3% và 44.4% tương ứng ở nhóm 1.