Khảo sát đặc điểm hình ảnh vùng vận động bàn tay trên cộng hưởng từ thường qui (sMRI) và cộng hưởng từ chức năng ở bệnh nhân u não. Đánh giá mối liên quan giữa khoảng cách từ tổn thương đến vùng vận động bàn tay (LMD) trên fMRI và tình trạng yếu liệt trước phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp Nghiên cứu khảo sát 20 bệnh nhân có u não quanh rãnh trung tâm và được phẫu thuật lấy u. Hình ảnh cộng hưởng từ chức năng và cộng hưởng từ thường qui của bệnh nhân được thu nhận. Các mốc giải phẫu liên quan vùng vận động bàn tay như giao rảnh trán trên và rãnh trước trung tâm, dấu hiệu dày, dấu hiệu "nắm tay", dấu hiệu "dấu ngoặc", dấu hiệu "cái móc", rãnh đai, được ghi nhận trên cộng hưởng từ thường qui. Đo khoảng cách giữa vùng vận động bàn tay trên fMRI và vùng vận động bàn tay trên cộng hưởng từ thường qui. So sánh tỷ lệ yếu liệt của các nhóm bệnh nhân có LMD <
1 cm, 1-2 cm, >
2 cm. Kết quả Dựa trên các mốc giải phẫu, tỷ lệ xác định được vùng vận động bàn tay trên sMRI trên bán cầu có u thấp hơn so với bán cầu không u. Khoảng cách từ vùng vận động bàn tay trên fMRI đến vùng vận động bàn tay trên cộng hưởng từ thường qui trung bình là 17,01 ± 3,63 mm và khoảng cách này lớn hơn 20 mm trong 35,23% các trường hợp. Tỷ lệ yếu liệt chi của nhóm LMD nhỏ hơn 1 cm, LMD từ 1 đến 2 cm và LMD lớn hơn 2 cm lần lượt là 75%, 50% và 0%. LMD có liên quan đến tình trạng yếu liệt trước phẫu thuật.Kết luận Không nên dùng cộng hưởng từ thường qui để xác định vùng vận động bàn tay trên bệnh nhân u não. LMD trên fMRI có mối liên quan với tình trạng yếu liệt chi trước phẫu thuật.