Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đo lượng phát thải CH từ hai hệ thống canh tác lúa nước gồm chuyên 2 vụ lúa và 2 vụ lúa + 1 vụ màu tại xã Trực Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng khí thải CH trong ruộng chuyên 2 vụ lúa đạt cực đại là 413,7 mg/m /ngày sau 61 - 67 ngày cấy
trong khi lượng phát thải CH trong ruộng 2 vụ lúa + 1 màu đạt cực đại là 540,6 mg/m /ngày sau 73 - 77 ngày cấy. Sự khác nhau này do chế độ bón phân khác nhau giữa hai phương thức canh tác. Ruộng chuyên 2 vụ lúa chủ yếu sử dụng phân bón vô cơ nên dễ hấp thu bởi cây trồng hơn và cây lúa sinh trưởng nhanh hơn, do đó đỉnh phát thải khí CH cũng sớm hơn. Trong khi ruộng trồng 2 vụ lúa + 1 màu chủ yếu bón phân chuồng hoai mục nên phải mất một thời gian để vi sinh vật phân giải, khiến cho giai đoạn dậy thì của lúa muộn hơn và đỉnh phát thải khí CH cũng đạt được chậm hơn. Đây là lý do giải thích cho lượng CH phát thải trong đất trồng 2 vụ lúa + 1 màu (quy đổi, 2,668 tấn CO e/tấn thóc) cao hơn so với đất chuyên 2 vụ lúa (quy đổi, 2,194 tấn CO e/tấn thóc). Đây mới chỉ là kết quả nghiên cứu bước đầu về ảnh hưởng của các yếu tố phân bón và giai đoạn sinh trưởng của lúa đến phát thải khí CH trong canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng sông Hồng. Để đánh giá chính xác mức phát thải CH trong điều kiện canh tác của Việt Nam, cần thực hiện nhiều nghiên cứu tiếp tục, trong đó quan tâm đến phát thải khí N O thường đi kèm với phát thải CH