Trình bày nghiên cứu tận dụng nguồn nước thải ao nuôi cá lóc đã xử lý để nuôi tảo Spirulina platensis. Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Nghiệm thức 1 môi trường nước thải ao nuôi cá lóc có mật độ tảo ban đầu là 1 x 10'4 tb/mL (10%). Nghiệm thức 2 môi trường nước thải ao nuôi cá lóc có mật độ tảo ban đầu là 1,5 x 10'4 tb/mL (15%). Nghiệm thức 3 môi trường nước thải ao nuôi cá lóc có mật độ tảo ban đầu là 2 x 10'4 tb/mL (20%). Nghiệm thức đối chứng Môi trường Zarrouk có mật độ tảo ban đầu là 1 x 10'4 tb/mL (10%). Kết quả nghiên cứu cho thấy NT1 đạt mật độ đạt cực đại 52.68 ± 281 tb/mL ở ngày nuôi thứ 15, có sinh khối tảo thu được 8,88 ± 0,24g/L. NT2 mật độ đạt cực đại 54.134 ± 489 tb/mL ở ngày nuôi thứ 13, có sinh khối tảo thu được 10,29 ± 0,10g/L. NT3 mật độ đạt cực đại 54.617 ± 1.164 tb/mL ở ngày nuôi thứ 11, có sinh khối tảo thu được 10,6 t 0,31g/L. NTĐC đạt mật độ cực đại 54.218 ± 567 tb/mL ở ngày nuôi thứ 16, có sinh khối tảo thu được 10,29 ± 0,29 g/L. Khi sử dụng nước thải ao nuôi cá lóc ở mật độ tảo ban đầu 15 - 20% % đạt sinh khối tảo cao so với nuôi ở mật độ tảo ban đầu 10% (p <
0,05). Hàm lượng Protein của tảo tỷ lệ thuận với mật độ nuôi ban đầu và tỷ lệ nghịch với thời gian nuôi