So sánh kết quả phôi học của kỹ thuật nuôi cấy IVM hai bước mới (được gọi là CAPA-IVM) cho các noãn thu đươc từ nang <
6 mm và ≥6 mm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang hoặc kiểu hình buồng trứng đa nang, <
38 tuổi, có tối thiểu 25 nang (2-9mm) trên siêu âm và được thực hiện kỹ thuật CAPA-IVM. Tại thời điểm chọc hút noãn, phức hợp noãn-tế bào hạt (COC) thu nhận được được chia vào 2 nhóm phụ thuộc vào kích thước nang (<
6 mm và ≥6 mm). Kết quả Có 731 COC được khảo sát, trong đó, 578 COC thu được từ nang có kích thước <
6 mm và 153 COC từ nang ≥6 mm. Tỷ lệ trưởng thành, thụ tinh, tạo phôi và phôi tốt của noãn ở 2 nhóm lần lượt là 61,1% và 72,5%, p=0,01
48,8% và 60,8%, p=0,008
31,7% và 43,1%, p=0,008
17,6% và 26,8%, p=0,01. Kết luận Các noãn thu được từ nang có kích thước ³ 6mm cho kết quả phôi học tốt hơn những noãn đến từ nang có kích thước <
6 mm.