Ba mươi giống lúajaponicađược sử dụng trong nghiên cứu có thời gian sinh trưởng được phân thành 4 nhóm với 6 giống cực ngắn ngày, 7 giống ngắn ngày, 7 giống trung ngày và 10 giống dài ngày. Các giống lúa dài ngày cho năng suất cao hơn các giống lúa ngắn ngày, trong đó 3 giống cho năng suất cao nhất đều thuộc nhóm dài ngày và 3 giống cho năng suất thấp nhất đều thuộc nhóm cực ngắn ngày. Thời gian trổ bông có tương quan với chiều cao cây, số hạt chắc/bông, tỷ lệ lép và năng suất của các giống lúa. Thời gian trổ bông càng muộn càng cao cây, nhiều hạt chắc và cho năng suất cao. Tuy nhiên, năng suất lúa chỉ tương quan trung bình với số bông/khóm, tương quan yếu với số hạt chắc/bông, khối lượng hạt và thời gian trổ bông. Chỉ thị phân tử P2 của vùng genHd1có thể xác định được các giống lúa có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm ngắn ngày hay dài ngày nhưng không thể phân biệt được tới 4 nhóm như thực tế đang sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long.