Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy tế bào gốc ung thư (CSCs) liên quan trực tiếp đến sự kháng thuốc, di căn, ung thư tái phát và ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả điều trị bệnh ung thư. Vì thế, CSCs được xem là đích hướng tới cho việc nghiên cứu, tìm kiếm các hợp chất có khả năng phòng chữa ung thư hiệu quả hơn. Hoạt chất malloapelta B được phân lập từ lá cây Bùm bụp (Mallotus apelta) (Lour.) Muel.-Arg, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) của Việt Nam, đã cho thấy khả năng phòng chữa ung thư in vitro rất tốt, đặc biệt là khả năng ức chế mạnh sự hoạt hoá của yếu tố NF-kB (nuclear factor- kappa B). Trong nghiên cứu của chúng tôi, malloapelta B được khảo sát hoạt tính ức chế sự phát triển tế bào gốc ung thư dòng NTERA-2 và cho thấy có IC50 = 12,71 ± 0,76 µM. Malloapelta B cũng lần đầu tiên được ghi nhận có tác động tới chu trình phát triển tế bào NTERA-2 khi làm giảm đáng kể tỉ lệ tế bào ở pha G0/G1 (37,48%), gây tăng số lượng ở pha G2/M (31,12%) so với đối chứng (56,81% và 18,96%, một cách tương ứng). Bên cạnh đó, malloapelta B ở các mức nồng độ 100 và 20 µg/mL cũng ức chế NTERA-2 hình thành cụm tế bào và đến sự phát triển khối u tế bào (tumorsphere), hai đặc tính liên quan tới tính tự làm mới của tế bào CSCs. Tuy nhiên, malloapelta B ở các nồng độ nghiên cứu là 2,5 và 5 µM không tác động mạnh và không ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ tế bào có biểu hiện CD44+/CD24+, là hai marker bề mặt khá phổ biến của tế bào CSCs.