Đánh giá bước đầu kết quả hóa xạ trị đồng thời kết hợp hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật bệnh nhân ung thư trực tràng giai đoạn II, III

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Hải Hoàng Nguyễn, Thị Nga Nguyễn, Viết Bình Nguyễn, Hồng Thăng Vũ

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại: 616.994 +Cancers

Thông tin xuất bản: Tạp chí Y dược lâm sàng 108, 2023

Mô tả vật lý: 50-56

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 433673

 Đánh giá kết quả đáp ứng hoàn toàn trên lâm sàng (cCR) và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư trực tràng giai đoạn II-III được điều trị bằng hóa xạ trị tân bổ trợ theo sau hóa trị củng cố (liệu pháp tân bổ trợ toàn diện) trước phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp 36 bệnh nhân ung thư trực tràng giai đoạn II, III tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An từ tháng 4/2022 đến tháng 4/2023 được điều trị hóa, xạ tiền phẫu gồm xạ trị điều biến liều (IMRT) 50,4Gy/28 phân liều đồng thời với Capecitabine 825mg/m2 × 2 lần/ngày × 5 ngày/tuần, theo sau đó là 12-16 tuần hóa chất củng cố bằng FOLFOX hoặc CAPEOX. Đánh giá đáp ứng trên lâm sàng sau khi hoàn thành xạ trị 6-12 tuần và 18-24 tuần bằng thăm trực tràng, nội soi trực tràng và MRI tiểu khung. Đánh giá mối liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng và cCR. Kết quả Tỷ lệ cCR sau xạ trị 6-12 tuần là 11,1% và 18-24 tuần là 36,1%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ cCR giữa các nhóm U T2-3 (43,3%) so với T4 (0%), hạch N0 (100%) so với N1 (40%) và N2 (22,7%), u dạng sùi (66,7%) so với dạng sùi loét (20,8%) và u ≤ 4cm (72,2%) so với u >
  4cm (0%) (<
 0,05). Kết luận Tỷ lệ cCR tại thời điểm sau khi kết thúc xạ trị 18-24 tuần cao hơn tại thời điểm 6-12 tuần. Các khối u ≤ T3, hạch N0, chiều dài u ≤ 4cm, hình thái u dạng sùi có tỷ lệ cCR cao.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH