Phẫu thuật điều trị hai thất cho bệnh lý gián đoạn quai động mạch chủ kèm theo tắc nghẽn đường ra thất trái tại Bệnh viện Nhi Trung ương

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Vương Anh Doãn, Lý Thịnh Trường Nguyễn

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam), 2023

Mô tả vật lý: 38-43

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 434031

Bệnh lý gián đoạn quai động mạch chủ kèm theo thông liên thất và hẹp đường thoát tâm thất trái là bệnh tim bẩm sinh rất nặng với tiên lượng khókhăn. Nghiên cứu này đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật một thì sửa chữa hai thất, bao gồm sửa chữa quai và eo động mạch chủ kèm theo vá lỗ thông liên thất và có can thiệp tổn thương hẹp đường ra thất trái trong quá trình phẫu thuật, cho các bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh gián đoạn quai động mạch chủ kèm theo lỗ thông liên thất và hẹp đường thoát tâm thất trái. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu Từ tháng 2 năm 2015 đến tháng 10 năm 2020, các bệnh nhân được chẩn đoán gián đoạn quai động mạch chủ-thông liên thất-hẹp đường ra thất trái do vách nón lệch sau, được phẫu thuật tim hở 1 thì sửa chữa haithất được nghiên cứu hồi cứu. Kết quả 35 bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu hồi cứu, trong đó có 24 bệnh nhân nam và 11 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 29 ngày (IQR, 15-54 ngày), cân nặng trung bình của các bệnh nhân khi phẫu thuật là 3.4 kg (IQR, 2.2-4.5 kg). Kích thước đường kính đường ra thất trái trung bình trước phẫu thuật là 4.3 mm (IQR, 3-8 mm), và Z-score trung bình của van động mạch chủ là -3 (IQR, -5.3 - -1.2). Có 14 bệnh nhân (40%) có sốc tim khi nhập viện. Thời gian cặp động mạch chủ trung bình của nhóm nghiên cứu là 88.6 ± 16.3 phút, thời gian chạy máy trung bình là 119.5 ± 21.6 phút, thời gian tưới máu não chọn lọc trung bình là 32.2 ± 10.5 phút. Có 12 bệnh nhân (34.3%) được cắt vách nón, và 23 bệnh nhân (65.7%) được khâu kéo vách nón sang phải nhằm mở rộng đường ra thất trái. 4 bệnh nhân (11.4%) được vá mở rộng quai động mạch chủ trong quá trình phẫu thuật, và 31 bệnh nhân được tạo hình quai động mạch chủ tận bên mở rộng không sử dụng miếng vá. Không có bệnh nhân nào có tổn thương van động mạch chủ hoặc tổn thương đường dẫn truyền cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn sau phẫu thuật. Có 4 bệnh nhân (11.4%) trong nhóm nghiên cứu tử vong sớm tại bệnh viện sau phẫu thuật, không có bệnh nhân tử vong muộn trong thời gian theo dõi. Có 7 bệnh nhân cần mổ lại do hẹp đường ra thất trái sau phẫu thuật. Tỷ lệ sống sót và tỷ lệ sống sót không cần mổ lại sau phẫu thuật ở thời điểm 5 năm lần lượt là 88.2% và 20.7%.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH