Đánh giá mối liên quan giữa giá trị nồng độ AMH huyết thanh với kết quả thụ tinh trong ống nghiệm. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả hồi cứu với đối tượng nghiên cứu là 157 phụ nữ trong độ tuổi từ 23-47, điều trị vô sinh bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản và Công nghệ mô ghép bệnh viện Đại học Y Hà Nội, từ tháng 1/2020 đến tháng 6/2021. Đối tượng được chia thành 3 nhóm theo giá trị AMH thấp <
1,25 ng/ml, trung bình 1,25-3,57 ng/ml, cao >
3,57 ng/ml (theo một nghiên cứu về mức đáp ứng buồng trứng tại Việt Nam trước đó) [1]. Đánh giá các kết quả bao gồm số noãn thu được, số noãn trưởng thành, tỉ lệ thụ tinh, số phôi và chất lượng phôi giai đoạn phân cắt, tỉ lệ thai lâm sàng tương ứng ở 3 nhóm này. Kết quả Tỉ lệ noãn trưởng thành, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi khả dụng giai đoạn phân cắt không khác biệt giữa các nhóm AMH. Tuy nhiên, số lượng noãn, số lượng phôi khả dụng giai đoạn phân cắt ở nhóm AMH thấp thì thấp hơn nhóm AMH trung bình, nhóm AMH trungbình thấp hơn nhóm AMH cao có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ thai lâm sàng có sự khác biệt giữa các nhóm AMH. AMH không có giá trị dự đoán chất lượng noãn bào nhưng có khả năng dự đoán được số noãn thu được, số phôi khả dụng và tỉ lệ thai lâm sàng.