Đánh giá kết quả và biến chứng của phương pháp mổ mở xâm lấn tối thiểu tạo hình khúc nổi bể thận niệu quản trẻ em. Đối tượng và phương pháp Mô tả hàng loạt ca, từ 1/2020 đến 6/2022 có 79 bệnh nhi được mổ mở xâm lấn tối thiểu tạo hình khúc nối bằng phương pháp Anderson-Hyne. Các biến số được thu thập trước, trong và theo dõi sau mổ gồm triệu chứng lâm sàng, độ ứ nước và đường kính trước sau bể thận trên siêu âm, chức năng thận trên xạ hình, thời gian mổ, chiều dài vết mổ, mất máu khi mổ, giảm đau sau mổ, thời gian xuất viện, biến chứng, tỷ lệ thành công sau mổ. Bệnh nhi sau mổ được tái khám ít nhất 6 tháng. Kết quả Tuổi trung bình là 21.41 tháng (2 - 90 tháng). Thời gian mổ trung bình là 67.09 phút (36 - 110 phút). Chiều dài vết mổ trung bình là 2.05 cm (1.7 - 2.7cm). Không có trường hợp nào cần truyền máu trong mổ. Biến chứng nhẹ sau mổ có 8 trường hợp (10.12%) bao gồm 4 nhiễm trùng, 1 tắc stent niệu quản, 1 sonde JJ lạc chỗ, 1 rò nước tiểu, 1 kẹt stent niệu quản. Thời gian xuất viện sau mổ trung bình là 5.72 ngày (3 - 11ngày). Tỷ lệ thành công sau mổ là 100% trong thời gian theo dõi trung bình 16.7 tháng (6 - 36 tháng). Kết luận Phương pháp mổ mở xâm lấn tối thiểu tạo hình khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ em có tỷ lệ thành công cao, biến chứng thấp, thời gian mổ nhanh, phù hợp với nhóm trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.