Khảo sát mẫu nước tiểu bể thận trong lúc phẫu thuật cung cấp nhưng thông tin giá trị về vi khuẩn học, hỗ trợ quá trình điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu (NKĐTN), giảm thiểu biến chứng nặng như nhiễm khuẩn huyết (NKH) và choáng nhiễm khuẩn (CNK) sau tán sỏi thận qua da (TSTQD).Xác định tỷ lệ có NKĐTN qua đánh giá mẫu nước tiểu bể thận, chủng vi khuẩn và độ nhạy cảm kháng sinh
xác định tỷ lệ có biến chứng NKH và CNK sau TSTQD.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Tổng cộng 69 mẫu thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tất cả các mẫu đều được tiến hành lấy nước tiểu ở 2 thời điểm lúc chọc dò vào đài bể thận và sau tán sỏi từ 15 - 30 phút. Các mẫu nước tiểu này được đánh giá qua xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, soi tươi - nhuộm gram (STNG), nuôi cấy vi khuẩn và độ nhạy cảm với kháng sinh. Ngoài ra, thu thập những biến sốtrước, trong và sau phẫu thuật liên quan đến tình trạng NKĐTN.Tỷ lệ có NKĐTN qua đánh giá nước tiểu bể thận là 31,88%, trong đó chủ yếu là vi khuẩn gram âm (76.19%). Chủng vi khuẩn phân lập được E.coli chiếm đa số (46%), kế đến là Enterobacteria cloaece, Proteus mirabillis, Staphyllococcus aureus, Enterococcus facaelis và vi nấm. Nghiên cứu ghi nhận 1 trường hợp NKH, không ghi nhân biến chứng CNK và tử vong.STNG và cấy nước tiểu bể thận (CNTBT) có giá trị cao trong đánh giá tình trạng NKĐTN ở những bệnh nhân có chỉ định TSTQD. Chúng tôi khuyến cáo thực hiện thường quy những khảo sát này nhằm giảm thiểu biến chứng NKĐTN, NKH và CNK.