Xác định tỷ lệ, mối liên quan giữa bệnh động mạch ngoại biên và xơ cứng động mạch với một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ. Đối tượng, phương pháp Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 42 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại khoa hồi sức cấp cứu - thận nhân tạo, Bệnh viện trường Đại học Y khoa Vinh. Chỉ số huyết áp cổ chân - cánh tay (ABI) được đo bằng máy đo vận tốc sóng mạch VP-1000 plus (Omron Healthcare Co., Ltd., Kyoto, Japan). Kết quả Bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB) và xơ cứng động mạch được chẩn đoán ở 26,2% và 19,0% bệnh nhân trong quần thể nghiên cứu. Có 57,9% bệnh nhân không triệu chứng trong nhóm có chỉ số ABI thay đổi (p = 0,0006). Các yếu tố nguy cơ tim mạch có liên quan đến sự thay đổi ABI trong nghiên cứu của chúng tôi là Đái tháo đường (OR = 7
p = 0,02
95%CI 1,0922 - 34,3472), giới tính nam (OR = 9,35
p = 0,0435
95% CI 1,0672 - 82,3563), hút thuốc lá (OR = 6,1
p = 0,0081
95%CI 1,6036 - 23,5008), béo phì trung tâm (OR = 21
p = 0,0068
95%CI 1,7706 - 144,5859), béo phì (OR = 16,8
p = 0,013
95%CI 1,4075 - 117,0129) và thời gian lọc máu kéo dài (p <
0,05). Kết luận Bệnh động mạch ngoại biên và xơ cứng động mạch xuất hiện phổ biến ở quần thể nghiên cứu. Đái tháo đường, giới tính nam, hút thuốc lá, béo trung tâm, béo phì và thời gian lọc máu kéo dài là những yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB) và xơ cứng động mạch.