Đánh giá tính an toàn và hiệu quả cải thiện dòng chảy của nicardipine khi tiêm trực tiếp vào động mạch vành ở bệnh nhân có dòng chảy chậm. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 34 bệnh nhân. Tiêu chuẩn lựa chọn là bệnh nhân có hình chụp mạch vành với dòng chảy TIMI <
3 và/hoặc CTFC ≥ 14, kèm theo không có hẹp ≥ 40% đường kính động mạch vành thượng tâm mạc. Nicardipine được sử dụng với liều 100-200 μg, ngay sau đó mạch vành được chụp lại. Tính an toàn được đánh giá bởi thay đổi mạch, huyết áp, triệu chứng trước và sau chụp. Hiệu quả cải thiện dòng chảy được đánh giá bởi thay đổi TIMI và CTFC, tốc độ hình chụp quy ước là 15 hình/giây. Kết quả Nghiên cứu bao gồm 20 nam và 14 nữ, tuổi trung bình 65 ± 9, BMI trung bình là 23,2 ± 2,4, triệu chứng nhập việnchính là đau ngực (79%). Huyết áp tâm thu trước và sau dùng thuốc giảm từ 127 ± 18 xuống 116 ± 14 mmHg, huyết áp trung bình giảm từ 100 ±13 xuống 92 ± 12mmHg, không có trường hợp nào huyết áp tâm thu giảm xuống thấp hơn 90 mmHg (p <
0,001), tần số tim thay đổi từ 73±12 thành 75±12 (<
0,001). Trước dùng thuốc, dòng chảy chậm được quan sát ở 66/102 mạch máu (65%), TIMI trung bình 2,4 ± 0,5, tất cả mạch máu đạt TIMI 3 sau tiêm thuốc. CTFC cải thiện từ 26,3 ± 6,8 xuống 10,6 ± 3,7 (<
0,001). Chỉ có 2 bệnh nhân (5,9%) có triệu chứng đau ngực thoáng qua sau dùng thuốc. Liều 100 μg và 200 μg đạt hiệu quả giảm CTFC tương đương, theo thứ tự là 10,9 ±4 và 10,4 ± 3 (p=0,601). Kết luận Nicardipine cho thấy hiệu quả cải thiện dòng chảy tốt ở bệnh nhân dòng chảy chậm mà không gây ảnh hưởng nhiều đến huyết động. Liều 100 μg cho thấy hiệu quả không kém hơn liều 200 μg trong nghiên cứu.